Skip to content
Banner 10.2024
Ngôn ngữ

Những Thách Đố Trong Sứ Vụ Truyền Giáo Tại Á Châu – Một Cái Nhìn Từ Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu

Administrator
2018-09-24 09:22 UTC+7 5
Bishop Luis Antonio “Chito” Tagle Kroeger, James H. Asia-Church in Mission Nhóm sinh viên – Học viện Đaminh chuyển ngữ Tôi xin cám ơn tất cả quí vị và những người tổ chức hội nghị này đã cho tôi cơ hội để một lần nữa cùng với những người dấn thân một cách đặc biệt […]


Bishop Luis Antonio “Chito” Tagle Kroeger, James H. Asia-Church in Mission
Nhóm sinh viên – Học viện Đaminh chuyển ngữ
cardinaltagle-1726495629.jpg
Tôi xin cám ơn tất cả quí vị và những người tổ chức hội nghị này đã cho tôi cơ hội để một lần nữa cùng với những người dấn thân một cách đặc biệt cho sứ vụ truyền giáo tại Á châu suy tư về ý nghĩa của Thượng Hội đồng Giám mục Á châu vừa mới kết thúc.

Thật là một niềm vui lớn cho tôi khi được mời tham dự như một “chuyên viên”, để phụ giúp các công việc của vị tổng thư ký. Nhờ đó, tôi được hiểu hết các công việc của Thượng Hội đồng và tôi có thể làm đôi chút ở hậu trường. Khi Hội đồng cố vấn hậu Thượng Hội đồng được thành lập, tôi ngạc nhiên khi được yêu cầu trở về Roma để trợ giúp những công việc của Hội đồng. Công việc chính của Hội đồng là đưa ra những đề nghị trình lên Đức Thánh Cha, để ngài soạn thảo tông huấn mà ngài sẽ công bố tại Á châu.

Chủ đề được giao cho tôi trình bày là: Những thách đố trong sứ vụ truyền giáo tại Á châu: Một cái nhìn từ Thượng Hội đồng Giám mục Á châu. Tôi sẽ cố gắng hết sức để trình bày chủ đề này, đồng thời đưa ra một vài lời giới thiệu về Thượng Hội đồng và chủ đề của Thượng Hội đồng. Chủ đề của Thượng Hội đồng đã cho chúng ta một vài chỉ dẫn liên quan những thách đố của sứ vụ truyền giáo tại Á châu. Tôi sẽ đưa ra một vài thách đố cụ thể hoặc một vài lãnh vực truyền giáo mà toàn bộ biến cố Thượng Hội đồng và tông huấn hậu Thượng đồng Giám mục sắp tới của Đức Thánh Cha đã chỉ ra.

BẢN CHẤT CỦA THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC

Trước hết, tôi sẽ bắt đầu với việc miêu tả bản chất của Thượng Hội đồng. Một ngày trước khi chính thức khai mạc Thượng Hội đồng, các “chuyên viên” được gặp Đức Hồng Y Schotte, CICM, tổng thư ký của Thượng Hội đồng. Một trong những điều ngài nhắc nhở chúng tôi là: “Tôi nhắc nhở anh em (hầu hết anh em là thần học gia), đây là Thượng Hội đồng Giám mục, chứ không phải là hội nghị của các thần học gia, anh em phải rõ như vậy. Đây không phải là hội nghị của anh em. Ý kiến của anh em không chi phối Thượng Hội đồng. Anh em đến đây là để giúp Thượng Hội đồng. Nói cách khác, đây là Thượng Hội đồng Giám mục”. Từ chính căn tính đó của Thượng Hội đồng, một Thượng Hội đồng mục tử, chúng tôi mong đợi rằng, hội nghị sẽ được chi phối bởi các mối quan tâm của các mục tử.

Sự việc này được xác minh từ những nhóm thảo luận nhỏ. Khi một điều khoản nào thuộc về thần học hay kinh viện được nêu lên, thì phản ứng của các giám mục là: “Hãy  để vấn đề này cho các thần học gia thảo luận”. Sau đó, các giám mục tập trung vào những vấn đề thuộc về mục vụ và truyền giáo hơn. Tôi để ý thấy rằng: sứ vụ mục vụ và truyền giáo không được phân biệt trong Thượng Hội đồng này. Vì thế, tôi sẽ sử dụng những từ sứ vụ truyền giáo và mục vụ có thể thay thế cho nhau.

– Mối quan tâm tôi nhận thấy trong Thượng Hội đồng là sự tập trung vào tình trạng của Giáo hội. Các Giáo hội đang ở đâu tại Á châu hay nhiều phần của Á châu? Các Giám mục hiện diện tại Thượng Hội đồng để đánh giá và nhận định tình trạng của các Giáo hội địa phương. Trong khi chia sẻ về tình trạng của các Giáo hội, dĩ nhiên sẽ thấy những thách đố của sứ vụ truyền giáo.

Tôi sẽ ghi tâm khắc cốt những câu chuyện kèm theo những tham luận của các giám mục. Không có tham luận nào có tính kinh viện thuần túy, nhưng luôn được đặt vào trong bối cảnh những câu chuyện của những người nam nữ cụ thể, những người công giáo cụ thể, những kinh nghiệm cụ thể của Giáo hội địa phương và người Công giáo địa phương. Những thử thách của sứ vụ truyền giáo mà tôi nhận định được đan xen vào trong những câu chuyện của cuộc sống và đấu tranh, của bách hại và khó khăn, tất cả gặp gỡ nhau trong khi sống đức tin trong những hoàn cảnh khác nhau ở Á châu. Đó là điều đầu tiên cho thấy Thượng Hội đồng này thực sự là một Thượng Hội đồng hướng về truyền giáo. Đó là một Thượng Hội đồng Giám mục, gồm các mục tử đang quan tâm đến việc làm cách nào để thăng tiến sứ vụ truyền giáo tại các Giáo hội địa phương trong hoàn cảnh của Á châu.

– Yếu tố thứ hai liên quan đến chính chủ đề của Thượng Hội đồng. Đức Thánh Cha đã chọn chủ đề này sau khi tham khảo ý kiến Hội đồng tiền Thượng Hội đồng. Nhiều Hội đồng Giám mục gởi các đại diện của mình để hình thành một Hội đồng tiền Thượng Hội đồng và đề nghị cho Đức Thánh Cha nhiều chủ đề cho Thượng Hội đồng. Cuối cùng, Đức Thánh Cha đã chọn chủ đề: “Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu độ và sứ mệnh yêu thương và phục vụ của Ngài tại Á châu: Để họ được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Chủ đề này có một công thức dài và nội hàm cũng khá rộng.

Cũng giống như những chủ đề cho các Thượng Hội đồng ở các châu lục khác (Thượng Hội đồng Giám mục Phi châu, Thượng Hội đồng Giám mục Mỹ châu – Latinh). Chủ đề này cũng tập trung vào sứ vụ truyền giáo và Phúc Âm hoá. Chủ đề cho Thượng Hội đồng Giám mục Á châu rõ ràng đề cập đến sứ vụ của Đức Giêsu Kitô. Chủ đề này không phải được chọn ngẫu hứng nhưng đã có nhiều suy tư, và tôi nghĩ điều quan trọng là đưa ra một vài sắc thái. Tôi cho rằng những sắc thái của chủ đề và lịch sử việc chọn lựa chủ đề đã chỉ ra những thách đố trong sứ vụ truyền giáo tại Á châu.

Tôi xin nêu lên một vài điểm quan trọng:

Trước hết, chủ đề này nhắc chúng ta nhớ rằng: Đức Giêsu Kitô là một nhà truyền giáo tuyệt vời. Ngài là một nhà truyền giáo. Ngài là Đấng được Chúa Cha sai đến. Tôi nghĩ chủ đề muốn nhấn mạnh điểm này. Truyền giáo là sứ vụ của Đức Giêsu. Ngài là một nhà truyền giáo.

Khía cạnh thứ hai rất được Đức Thánh Cha lưu tâm trong việc chọn lựa chủ đề: Đức Giêsu Kitô là nhà truyền giáo nhưng cũng là Đấng Cứu độ. Ngài là Đấng Cứu độ duy nhất, là Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người. Vì thế, truyền giáo, sứ mạng của Đức Giêsu Kitô, Đấng được Chúa Cha sai đến, là thực hiện kế hoạch cứu độ của Chúa Cha. Đó là sứ mạng cứu độ. Chính vì thế, Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu độ.

Tôi được biết là đã có nhiều công thức trước khi công thức sau cùng này được đưa ra. Công thức này bắt đầu: Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu độ và Ngài là Đấng Cứu độ duy nhất. Rồi mọi đặc tính được bỏ đi hết để chỉ nói: Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu độ. Đức Thánh Cha nhấn mạnh phần này: Đức Giêsu Kitô trong sứ mạng của Ngài là Đấng Cứu độ.

Khía cạnh thứ ba là việc miêu tả sứ vụ truyền giáo của Đức Giêsu được diễn đạt cụ thể trong chủ đề xét về phương diện yêu thương, phục vụ, và sức sống dồi dào. Ba phạm trù này định nghĩa sứ vụ của Đức Giêsu. Đó là sứ vụ yêu thương. Đó là sứ vụ phục vụ. Và đó cũng là sứ vụ ban tặng sự sống, nghĩa là chia sẻ đời sống với các dân tộc ở Á châu. Sứ vụ này của Đấng Cứu độ phải được nhập thể làm người hay là kéo dài trong thời gian đặc biệt là ở Á châu. Tiêu điểm của Thượng Hội đồng này là: làm thế nào để nhập thể sứ vụ yêu thương, phục vụ và sự sống trong thực tế ở Á châu.

Theo kinh nghiệm của Thượng Hội đồng, các bài tham luận không luôn luôn tập trung vào chủ đề. Các giám mục tự do nói về đề tài họ đã chọn lựa. Vì thế chuyện này khiến cho các thư ký gặp khó khăn. Chúng tôi làm việc trong văn phòng tổng thư ký, nên một ngày hai lần chúng tôi phải tổng kết tham luận của các giám mục. Thực là khó khăn khi phải tìm ra ý nghĩa bên dưới các dòng chữ. Các giám mục thực sự đang nói gì? Bài tham luận liên quan đến chủ đề như thế nào? Sự liên kết  không luôn luôn rõ ràng và dứt khoát. Phần việc của người thư ký không phải là đọc quá nhiều, mà là phải cố gắng khám phá sự phong phú ẩn giấu trong các bài tham luận.

Là hội nghị các mục tử, Thượng Hội đồng muốn đề cập đến những mối bận tâm về truyền giáo và những thách đố về phương diện tôn giáo. Đồng thời, Đức Thánh Cha chọn lựa chủ đề này để muốn tất cả chúng ta suy tư về sứ vụ truyền giáo trong khuôn khổ đặc thù: chiều kích Kitô học, Đức Giêsu như là một nhà truyền giáo, sứ vụ của Đức Giêsu như một Đấng Cứu độ, và tất cả những điểm này được cảm nghiệm một cách cụ thể trong sứ vụ yêu thương, phục vụ và sự sống được nhập thể tại Á châu ngày nay.

Dĩ nhiên, điều tôi chia sẻ với quí vị không phải là lời cuối cùng trong đề tài này. Tôi đã lưu ý điều này trong tạp chí Landas, số mới nhất (12.02.1998). Tạp chí thần học của trường thần học Loyola (Manila), Đức Giám mục Francisco Claver và cha James Kroeger đã viết về Thượng Hội đồng và đặc biệt về những khía cạnh truyền giáo của Thượng Hội đồng. Đức tổng giám mục Orlando Quevedo đã có một bài về Thượng Hội đồng Á châu: Những đường hướng khác biệt và những thách đố của sứ vụ truyền giáo, được đăng trong tạp chí East Asian Pastoral Review (31.01.1998).

NHỮNG THÁCH ĐỐ CỦA SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO Ở Á CHÂU

Bây giờ tôi xin đóng góp thêm một chút nữa. Tôi muốn nói đến bốn điểm đặc biệt. Thách đố đầu tiên dựa trên chủ đề của Thượng Hội đồng hoàn toàn có ý nghĩa, đó là các Giáo hội Á châu được mời gọi có một lập trường khiêm nhường và sâu sắc về truyền giáo. Kết thúc thiên niên kỷ, nhiệt tình truyền giáo mà Đức Thánh Cha và các Giám mục trong Thượng Hội đồng muốn thấy ở Á châu là nhiệt tình bám rễ sâu trong xác tín rằng chính sứ vụ của Đức Giêsu trong Chúa Thánh Thần phải được thực thi ở Á châu này. Đó là sứ vụ của Đức Giêsu, chứ không phải của chúng ta. Đó là cách Đức Giêsu hoàn thành kế hoạch cứu độ của Chúa Cha. Đó là cách Đức Giêsu cụ thể hoá đời sống, phục vụ, yêu thương trao ban sự sống và dấn thân phục vụ. Đây là qui phạm cho sứ vụ truyền giáo. Đó là đường lối của Đức Giêsu. Đây cũng là điều được nhắc đi nhắc lại: khi đối diện với ngàn năm thứ ba, các Giáo hội ở Á châu phải trở về với cách thế mà Đức Giêsu đã hoàn thành sứ vụ của Ngài!

– Theo tôi, thách đố đầu tiên mà Thượng Hội đồng nêu ra là thách đố nền tảng của việc học hỏi lại từ Đức Giêsu. Chúng ta cần phải để cho Đức Giêsu dạy dỗ, nhìn ngắm Đức Giêsu như nhà truyền giáo và được hoán cải. Chúng ta cần phải trải qua cuộc hoán cải để theo đường lối truyền giáo của Ngài. Điểm đầu tiên mà tôi muốn nêu lên có liên hệ khắng khít với linh đạo truyền giáo. Thượng Hội đồng nhấn mạnh rằng đó chính là sứ vụ của Đức Giêsu, sứ vụ ấy không phải của chúng ta mà là của Đức Giêsu. Điều này làm cho chúng ta được tự do rất nhiều.

Đối với các cuộc thảo luận trong suốt Thượng Hội đồng, chúng tôi được phân chia thành từng những nhóm nhỏ. Tôi nhớ ba khoá họp đầu tiên của một nhóm nhỏ mà tôi được phân bổ vào phụ trách. Bầu khí của buổi chia sẻ là: “Đây là vấn đề, đó là vấn đề. Chúng ta làm thế nào để trình bày những vấn đề đó?” Sau ba hay bốn buổi chia sẻ và sau tất cả những cuộc tranh luận, chúng tôi trở nên thực tế hơn và bầu khí đã thay đổi.

Một Giám mục trong nhóm chúng tôi nói rằng: “Các vị biết không, chúng ta đang làm ra vẻ như chúng ta là những người sẽ cứu vớt Á châu và thậm chí chúng ta không thể đồng ý với một vấn đề cụ thể như vấn đề hội nhập văn hoá trong phụng vụ. Vậy thì, làm thế nào chúng ta có thể trở nên những người cứu thế ở đây, trên mảnh đất Á châu này? Có lẽ điều đầu tiên mà chúng ta có thể làm được như là những người quan tâm đến việc thúc đẩy sứ mạng truyền giáo của Giáo hội tại đây, ở Á châu này, đó là biết sống khiêm nhường và nhìn nhận rằng điều đó không phải là sứ vụ của chúng ta, mà chủ yếu là sứ vụ của Đức Giêsu. Làm thế nào chúng ta có thể học hỏi từ Ngài đây?” Điều đó đã khiến cho nhóm chúng tôi cảm thấy nhẹ nhàng. Hãy thử tưởng tượng sức nặng mà chúng tôi phải gánh vác khi nghĩ rằng chúng tôi là vị cứu tinh. Thoải mái biết bao khi nhận ra rằng chúng ta cần phải học biết từ nơi Đấng đã được Chúa Cha sai đến. Tôi nghĩ đây là một thách đố của sứ vụ truyền giáo ở Á châu: hãy nhìn ngắm lại Đức Giêsu. Khía cạnh chiêm niệm sâu xa hơn của sứ vụ truyền giáo là nhìn ngắm Người để có thể học biết nơi Người những cách thức truyền giáo.

– Thách đố thứ hai cần đề cập đến là điều này. Trong khi thực sự Đức Giêsu và sứ vụ của Người vẫn hiện diện, chúng ta, những người sống trong Giáo hội Á châu này, được kêu mời để tiếp nối, để biểu lộ, để nhập thể sứ vụ của Đức Giêsu vào thực tế hiện thời của Á châu. Tôi không biết đó là điều có thể chấp nhận hay đã được chấp nhận; công tác này đòi hỏi một vài kiểu “hiện tại hoá” sứ vụ của Đức Giêsu Kitô trong thực tế ở Á châu. Tôi nghĩ các Giáo hội ở Á châu được mời gọi để tạo điều kiện cho những cuộc giao lưu và gặp gỡ giữa sứ vụ của Đức Giêsu vẫn từng hiện diện trong Thần Khí và đời sống thực tế của Á châu. Đó là những gì mà các Giáo hội ở Á châu được kêu gọi thực thi. Đó không phải là thay thế sứ vụ của Đức Giêsu, bởi vì sứ vụ của Đức Giêsu hiện diện sâu xa trong Thần Khí. Thách đố là để tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ giữa sứ vụ tràn đầy Thần Khí của Đức Giêsu với thực tế của Á châu; trong cuộc gặp gỡ đó sứ vụ của Đức Giêsu mặc lấy nhục thể, mặc lấy một hình thể có tính hiện đại đối với con người Á châu.

Thách đố này được diễn tả trong Thượng Hội đồng bằng nhiều cách khác nhau. Tôi xin đơn cử ra hai cách biểu lộ mối quan tâm đến những thách đố của sứ vụ. Điều đầu tiên đánh động tôi là trong Thượng Hội đồng có lời kêu gọi không ngớt các Giáo hội ở Á châu hãy nghiêm chỉnh và nhiệt tình nhận lấy những gì thực sự là Á châu. Điều này có nghĩa là nghiêm chỉnh đón nhận những thế giới khác biệt ở Á châu, bởi vì chúng ta nhận ra rằng chẳng có “một Á châu”. Á châu không phải là một thực tại đồng bộ. Đây là lời kêu gọi thường xuyên trong Thượng Hội đồng: “Hãy nghiêm chỉnh đón nhận những thế giới khác biệt của Á châu và không chỉ trong kiểu cách hoài cổ”.

Có lẽ bạn đã nhìn thấy những tấm ảnh về thánh lễ khai mạc và bế mạc Thượng Hội đồng, rất rực rỡ màu sắc. Các phần trong Thánh lễ được giao cho các Giáo hội khác nhau. Tin mừng được công bố, theo truyền thống Syro-Malabar, và Halleluia cử hành theo truyền thống Syro-Malankara. Việc dâng lễ vật được các người Ấn độ thực hiện theo vũ điệu ba bước tiến và bốn bước lùi. Cuộc rước để đi đến gần Đức Thánh Cha mất 30 phút. Tất cả rực rỡ màu sắc! Trong lúc thánh hiến các trinh nữ Ấn độ múa nhảy với hoa và nến. Vào lúc kết thúc, mọi người rất hạnh phúc vì tất cả sự khác nhau về sắc màu, ngôn ngữ, và những giai điệu của Á châu được cử hành trong buổi Thánh lễ đó.

Một Giám mục bảo tôi: “Nhưng ngài không thấy các phụ nữ Aán độ múa nhảy theo phong cách Ấn độ hiện đại ư? Ngài không thấy các phụ nữ Inđônêsia ăn mặc theo phong cách hiện đại ư?”. Vị ấy nói tiếp: “Tại sao chúng ta lại cứ muốn thể hiện thế giới Á châu theo phong cách hoài cổ vậy? Tại sao chúng ta không thể đối diện với thế giới hiện thời của Á châu?” Vị ấy hỏi tiếp: “Ở Philippines phụ nữ vẫn mặc các trang phục đặc biệt đó ư? Tôi nói: “Không, thưa ngài, chỉ trong các chương trình biểu diễn thôi”. Vị giám mục: “Ra thế, chúng ta đang biến Thượng Hội đồng thành một chương trình văn hoá”.

Tôi ngạc nhiên, nhưng điều đó làm cho tôi phải suy nghĩ. Khi một ai đó nói rằng: “Hãy trở nên thực sự là Á châu”, điều đó sẽ có ý nghĩa hơn là một cái gì đó hoài cổ trong y phục và sắc màu. Chẳng phải chúng ta đang đối diện với thế giới hiện thời của Á châu đang chịu ảnh hưởng bởi việc toàn cầu hoá văn hoá và các giá trị đang thay đổi khung cảnh văn hóa và con người? Á châu hiện thời là gì? Tôi nghĩ đó là một điều nhắc nhở có ý nghĩa. Khi chúng ta nói về thế giới Á châu và các nền văn hoá Á châu, điều đó không có nghĩa là một cái nhìn hoài cổ về các nền văn hoá; Giáo hội cần phải đối diện với những nền văn hóa thay đổi nhanh chóng và năng động, là những nền văn hóa xác định thế giới Á châu ngày nay.

Tại sao điều này là sự thực? Bởi vì chính là trong và qua những thực tại Á châu này mà sứ vụ cứu độ của Đức Giêsu phải được nhập thể. Vì thế, đó không phải chỉ là sự hiếu kỳ. Chúng ta cần biết thực tại trong đó người ta diễn xuất cái gọi là vở kịch. Thế giới Á châu không phải là sân khấu. Nó là thành phần cấu tạo việc nhập thể của sứ vụ cứu độ của Đức Giêsu ngay lúc này. Cần phải quan tâm đến Á châu ngày nay. Trong và qua những thực tại Á châu hiện thời, sứ vụ cứu độ của Đức Giêsu sẽ trở nên sống động hơn ở Á châu. Điều này cóù nghĩa là lưu tâm đến thế giới Á châu.

Điều thứ hai mà tôi nhận định rõ xét vì lời kêu gọi này nhằm thức tỉnh những thực tại của Á châu là như sau. Tôi nhận thấy trong Thượng Hội đồng có một ý thức sâu thẳm về việc cử hành tính Á châu của đức tin Kitô hữu. Tôi nghĩ Đức Thánh Cha cũng ủng hộ cách cử hành này. Đức Thánh Cha hiếm khi nói và, trong thực tế, không can thiệp gì trong suốt các cuộc thảo luận của Thượng Hội đồng. Ngài chỉ có bài giảng khai mạc và bế mạc. Mọi ngày ngài có một vài nhận xét hay một chút đùa vui để bắt đầu phiên họp.

Tôi nhớ vào một buổi sáng nọ (tôi không biết Ngài có đùa hay không nhưng có một chút khôi hài) ngài nói: “Đức Giêsu đã sinh ra ở Á châu”. Tôi nhìn thấy các vị giám mục rất hạnh phúc khi được nhắc nhớ rằng Đức Giêsu đã sinh ra ở Á châu. Rồi Đức Thánh Cha nói tiếp: “Chính trong lãnh thổ của Á châu mà nhìn về phía Châu Aâu.” Như vậy, Đức Giêsu được sinh ra ở vùng đất Á châu nhưng vùng đất ấy lại mở ra cho toàn thể thế giới. Ngài muốn duy trì hai chiều kích. Tôi đặc biệt nhận thấy trong nhóm nhỏ và trong Hội đồng hậu Thượng Hội đồng đã có sự thúc đẩy để cử hành “tính Á châu” của Kitô giáo.

Đức Giêsu được sinh ra ở mảnh đất Á châu. Ngài đã mang lấy trong mình những truyền thống văn hóa của người Á châu. Đó là lý do tại sao thậm chí ngay trong cách mà các sách Tin mừng được viết ra và trong những hình ảnh được sử dụng, phương pháp tiếp cận rất Á châu. Giáo hội và phong trào Kitô giáo, chính Kitô giáo, tất cả đều có gốc rễ Á châu. Đó là điều mà Thượng Hội đồng Giám mục muốn chúng ta chú ý đến như là một phần trong thách đố về sứ vụ truyền giáo của chúng ta. Chúng ta có thể cử hành đức tin Kitô giáo theo chiều kích Á châu không? Hầu như là một điệp khúc trong suốt Thượng Hội đồng khi Kitô giáo ở Á châu vẫn được coi như là một cái gì ngoại quốc, một cái gì xa lạ. Vì thế, cần phải khám phá sự tương hợp của đức tin Kitô giáo với tâm thức của người Á châu, với các nền văn hoá ở Á châu. Thật vậy, việc khám phá đặc tính Á châu trong Tin mừng cứu độ là một phần của thách đố trong sứ vụ truyền giáo của Thượng Hội đồng.

SUY TƯ

Tôi đi vào điểm thứ ba. Thượng Hội đồng đã nhận ra rằng đóng góp độc đáo của người Kitô hữu trong vùng Á châu là niềm tin của chúng ta vào Đức Giêsu Kitô. Chúng ta có thể cộng tác với những người khác ở Á châu về vấn đề sự sống, công bằng, việc thăng tiến phẩm giá con người và tất cả những điều đó. Nhưng Thượng Hội đồng cũng nhấn mạnh rằng: nét độc đáo của các Giáo hội Kitô giáo chính là Chúa Giêsu Kitô. Không ai có thể chia sẻ Đức Giêsu Kitô như chúng ta. Có điều gì chúng ta có thể nói với những người đang đặt ra những câu hỏi sâu xa về cuộc sống, thì câu trả lời của những người Kitô hữu phải là Đức Giêsu và tất cả những gì Ngài dạy. Đó là đóng góp của chúng ta.

Trong một vài phân ban và nhóm nhỏ đã có phản ứng với những khuynh hướng xung quanh vấn đề về thần học và truyền giáo là cần giới hạn trong yếu tố  đức tin. Một Giám mục Ấn Độ đã phát biểu: “Có nhiều nhà thần học và truyền giáo đầu tiên giả vờ mình không phải là Kitô hữu. Họ giới hạn điều đó để tiếp xúc với những người khác ở mức độ con người với nhau. Họ nói: “Chúng ta chia sẻ cùng một bản tính nhân loại, hãy để yếu tố Kitô hữu đến sau”. Đức Giám mục nói tiếp: “Nhưng, những người ngoài Kitô giáo ngạc nhiên khi thấy chúng ta không đề cập đến Đức Giêsu, vì họ biết rằng chúng ta là kitô hữu, họ mong chúng ta nói về Đức Giêsu cho họ. Vậy sao chúng ta trì hoãn điều đó? Tại sao người Kitô hữu lại giấu sự kiện này trong khi những người khác đang mong đợi điều đó?” Cuộc thảo luận này đi vào khoa sư phạm và phương pháp luận. Cuối buổi họp mọi người đều đồng ý là: “Chúng ta không cần phải giấu sự thật về Đức Giêsu, Đấng mà chúng ta đang mang tới cho mọi người. Đó là Đức Giêsu mà chúng ta đang rao giảng. Thực tế, đây là sự đóng góp chính yếu của chúng ta”.

Hiện nay, trọng tâm của Kitô học ở đây không đơn giản như chúng ta biết. Có rất nhiều vấn đề truyền giáo và thần học mục vụ phức tạp liên quan đến lời công bố về Đức Giêsu. Một câu hỏi rất quan trọng được nêu lên trong Thượng Hội đồng: Chúng ta hiểu Đức Giêsu là Đấng Cứu độ duy nhất như thế nào đứng trước nhiều tôn giáo và cứu độ học ở Á châu. Đây vẫn còn là một vấn đề. Mặt khác, chúng ta phải hiểu cứu độ theo nghĩa nào? Chúng ta nói rằng Đức Giêsu đến để ban ơn cứu độ, nhưng cứu độ là gì? Chúng ta phải trình bày ơn cứu độ theo cách thức nào để có ý nghĩa đối với yêu cầu của ngưới Á châu tìm kiếm một cuộc sống sung mãn hơn? Mối liên hệ giữa Đức Giêsu và Thánh Thần như thế nào? Nhiều Giám mục nói rằng, để tránh nói về Chúa Giêsu, có những người chỉ cầu khẩn Chúa Thánh Thần. Nhưng ở đâu có Chúa Thánh Thần thì ở đó chúng ta cũng tìm thấy Chúa Giêsu. Như vậy, chẳng phải là rất cần thiết để nói về Đức Giêsu sao? Thượng Hội đồng đã có một sự thúc đẩy rất lớn, đặc biệt từ các Giám mục Ấn Độ, để làm sáng tỏ mối liên hệ giữa sứ vụ của Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần. Các ngài cũng đòi hỏi những vấn đề mang tính thiết thực hơn nữa, là làm sao giới thiệu Đức Giêsu một cách dễ hiểu và đầy hấp dẫn hơn cho người Á châu.

Thêm vào đó, vấn đề này không chỉ ở trong lãnh vực thần học mà cả trong khía cạnh Giáo hội, cơ cấu và chính sách của Giáo hội nữa. Tại sao vậy? Người ta sẽ biết đến những giá trị của Đức Kitô qua những chính sách của chúng ta, cơ cấu của chúng ta, và qua những cách chúng ta tương quan với nhau trong cộng đoàn. Thực vậy, tôi nhớ một giám mục đã đề nghị rằng, sống trong vùng Á châu, chúng ta cần suy nghĩ cách thức về nhiệm vụ của Đức Giáo hoàng phải cư xử làm sao cho phù hợp với tinh thần Á châu. Chúng ta phải suy nghĩ lại về nhiệm vụ của Phêrô xét về phương diện tinh thần Á châu? Đó là điều không phải dễ!

Riêng về nhóm nhỏ của tôi có một đề nghị “Có lẽ chúng ta nên giới thiệu Đức Giêsu như một Guru”. Khi ấy một Giám mục Trung Quốc đã nói: “Người Trung Quốc sẽ không hiểu được Guru. Guru là gì? Chúng ta cần nói: Đức Giêsu là một Đấng giác ngộ”. Tóm lại, chúng ta phải đón nhận những hình ảnh gần gũi với tinh thần và kinh nghiệm Á châu và sử dụng chúng để trình bày về Đức Giêsu. Đó là điểm thứ ba của tôi: trọng tâm Kitô học và cũng là vấn đề thách đố của Thượng Hội đồng.

NHỮNG THÁCH ĐỐ CHO SỨ VỤ ĐẶC BIỆT

Cuối cùng, điểm thứ tư thì phong phú hơn nhiều và bao gồm một vài lãnh vực đặc biệt của sứ vụ đối với Giáo hội. Thượng Hội đồng cảm thấy chúng ta nên đi vào và đem ơn cứu độ của Đức Giêsu đến những lãnh vực nào trong đời sống ở Aù châu. Làm thế nào chúng ta nhập thể được sứ vụ ơn cứu độ của Đức Giêsu ? Ở đây, tôi nêu ra năm lãnh vực chính có thể sẽ xuất hiện trong tông huấn hậu Thượng Hội đồng, bởi vì có một vài lãnh vực chủ chốt đã được các giám mục nêu lên trong suốt Thượng Hội đồng.

– Vấn đề đặc biệt đầu tiên là lời loan báo về Đức Giêsu. Đây là điều đang được Toà thánh Vatican xem xét, liên quan đến các tài liệu từ các Giám mục Á châu đệ trình. Các ngài khẳng định: chúng tôi, những người Á châu, rất yếu kém trong việc loan báo Đức Giêsu. Nhiều người trong các ngài sợ rằng chúng ta đang thay thế cuộc đối thoại bằng lời loan báo minh nhiên về Đức Giêsu. Như thế, trong Thượng Hội đồng, điều này đã được khẳng định một cách mạnh mẽ: sự cần thiết phải loan báo tỏ tường về Đức Giêsu. Dĩ nhiên, quí vị biết các giám mục Á châu đã làm điều đó như thế nào. Các ngài khẳng định điều đó, nhưng rồi quí vị thử nhìn vào các bản văn tham luận xem. Các giám mục Á châu đã hiểu gì khi nói loan báo về Đức Giêsu? Điều hiển nhiên trước hết là loan báo qua Lời Chúa. Thật vậy, một số giám mục thậm chí đề nghị các học giả Kinh thánh ở Á châu hãy khởi sự tìm ra những lối giải thích Kinh thánh theo cách thức của người Á châu. Có thể phát triển những bản văn giải thích theo cách Á châu không? Những bản văn ấy phải có tính khoa học nhưng cũng hoà hợp với với tâm thức của người Á châu.

Một giám mục khác nói rằng: “Việc loan báo về Đức Giêsu phải được chuyển dịch qua đời sống chiêm niệm và sự trao đổi giữa những người (người Công giáo, Kitô hữu, không Kitô) trong lãnh vực chiêm niệm”. Có một phản ứng mạnh mẽ đối với tham luận của một giám mục, vị này đã nói rằng: “Tại sao ở Á châu, khi tìm kiếm phẩm chất trong lãnh vực giáo dục, trong việc chăm sóc sức khoẻ, các dịch vụ xã hội, thì người ta tự dưng đến với các học viện Công giáo, các bệnh viện Công giáo, các hội bác ái Công giáo và tất cả những cơ sở như thế? Thế nhưng, khi tìm kiếm sự hướng dẫn tâm linh, thì họ lại đến với các nhà sư Phật giáo hay các tu sĩ Ấn giáo”.

Người Công giáo Á châu không nổi tiếng về sự khôn ngoan tâm linh. Vì thế, Thượng Hội đồng nhấn mạnh rằng việc loan báo Lời nên đi kèm theo đời sống chiêm niệm. Chúng ta có một truyền thống chiêm niệm lâu đời và phong phú có thể trở nên thành phần của việc loan báo Đức Giêsu. Một giám mục đã khẳng định rằng chúng ta không phóng đại truyền thống chiêm niệm của Giáo hội cho cuộc đối thoại truyền giáo và việc loan báo Đức Giêsu. Bên cạnh đó, còn có việc loan báo qua chứng tá của đời sống.

Tóm lại, việc loan báo Đức Giêsu là vấn đề nổi bật trong Thượng Hội đồng, trong các phiên họp của Hội đồng hậu Thượng Hội đồng và trong các khuyến cáo của Đức Thánh Cha. Các văn phòng ở Vatican và các Thánh bộ hoàn toàn hài lòng. Các vị ấy được bảo đảm là con người Á châu tin vào lời loan báo về Đức Giêsu. Các vị ấy thực sự lo lắng về điều đó. Tuy nhiên, tôi không biết tại sao.

– Khía cạnh thứ hai và cũng là lãnh vực đặc biệt của sứ vụ truyền giáo của Giáo hội là vấn đề hiệp thông. Hiệp thông trong Giáo hội là một cách thế truyền giáo; hiệp thông là một lối chứng tá truyền giáo. Việc loan báo Đức Giêsu, đặc biệt ở Á châu là nơi người ta luôn tìm kiếm sự hài hoà, hài hoà bên trong các quan hệ con người, và hài hoà với vũ trụ. Vì vậy, nếu các cộng đoàn, đặc biệt là cộng đoàn Kitô hữu, có thể là chứng tá cho khả năng hiệp thông, thì chúng ta đã loan báo về Đức Giêsu rồi. Thách đố là chuyện ở bên trong Giáo hội. Giáo hội hoạt động cho sự hiệp thông bên trong chính mình như một phần của công tác truyền giáo. Điều đó không đơn giản chỉ là một cái nhìn vào bên trong; chúng ta ổn định các việc trong nội bộ để chúng ta có thể có sự hiệp thông với nhau. Đối với Thượng Hội đồng, sự hiệp thông chính là sứ vụ truyền giáo. Vì thế, sự hiệp thông trong các Công đoàn Giáo hội cơ bản (BECs), sự hiệp thông trong các giáo xứ, sự hiệp thông trong các giáo phận, và sự hiệp thông trong Giáo hội phổ quát không chỉ là các mối quan hệ êm thấm trong Giáo hội, nhờ đó các Kitô hữu được sống trong sự hài hòa với nhau. Hiệp thông còn là một phần trong sứ vụ loan báo của chúng ta.

Sứ vụ loan báo ở Á châu, nơi mà sự hài hoà được coi là giá trị hàng đầu, bao hàm lời kêu gọi hiệp thông. Sự hiệp thông giữa các Giáo hội trong những hoàn cảnh khó khăn khác nhau là điều được hình dung. Đức Thánh Cha đã nhiều lần đề cập đến điều này khi ngài thức dậy vào buổi sáng, điều đầu tiên mà ngài cầu nguyện là cho Giáo hội ở Trung Quốc. Ý hướng này cũng bao gồm cả Bắc Hàn, có điều chúng ta không chắc là có một Kitô hữu nào hiện diện ở đó hay không. Chúng ta không có tin tức gì hết. Sự hiệp thông với con người trong những hoàn cảnh khác nhau là một đề tài thường xuyên của Thượng Hội đồng.

Tôi đặc biệt xúc động vì tham luận của các giám mục và các vị tông tòa khác của các nước cộng hoà mới được tự do ở Trung Á, chẳng hạn Kazakhstan, Kyrgizstan. Tổng giáo mục Irak, một người Chalde, là giám mục duy nhất cho toàn thể nước Irak, cho tất cả những người Chalde. Ngài chỉ có 60 linh mục cho toàn quốc gia. Ngài hỏi tôi: “Giáo phận ngài có bao nhiêu linh mục?” Tôi nói: “Chúng tôi có gần 80 người”. Ngài nói: “Xem nào, đó chỉ là một giáo phận, còn chúng tôi chỉ có 60 linh mục cho toàn thể quốc gia. Hãy gửi cho chúng tôi một vài linh mục”. Tôi nói: “Vâng, chúng tôi sẽ gửi”. Tôi nói vâng, nhưng không biết phải gửi ai đây!

Rồi vị giám mục ấy đề cập đến những điều khác:“Xin giúp chúng tôi suy nghĩ về điều kỳ lạ này là sự biến mất các Giáo hội tiên khởi. Phần nhiều các Giáo hội này được các Tông đồ thành lập. Nhưng đó là một mầu nhiệm. Tại sao Thiên Chúa để cho các Giáo hội này biến mất?” Rồi ngài nói tiếp: “Phải chăng chúng ta không thành thật với ơn gọi của chúng ta ở Á châu? Phải chăng chúng ta không được gọi để thực sự trở nên đoàn chiên bé nhỏ? Chúng ta có nên thực sự làm việc nhằm việc gia tăng con số Kitô hữu không? Hoặc là chính lời kêu gọi của chúng ta ở Á châu phải biến mất?” Đây là một câu hỏi rất khó khăn về truyền giáo.

Tôi đã ngạc nhiên khi vị giám mục ấy nói về sự biến mất các Giáo hội tiên khởi. Ngài nói: “Chúng ta sẽ chống lại lời kêu gọi chăng? Đó có phải là một lời kêu gọi không? Có thể chúng ta thực sự được gọi để mãi là một đoàn chiên nhỏ bé không? Tôi có phải trung thành với điều đó không? Đó là một phần của thách đố cho sứ vụ truyền giáo ở Á châu, không phải để gia tăng, nhưng thậm chí có thể để biến mất. Và khi giờ phút đó đến, thì đừng chống lại”. Tôi nói với vị ấy: “Thưa Đức cha, tôi không biết trả lời thế nào.  Đó là một câu hỏi khó đấy”.

– Khía cạnh cụ thể thứ  ba là đối thoại. Điều này không còn mới mẻ đối với chúng ta nữa. Trong khoảng thời gian trên dưới 27 năm, trực giác căn bản của Liên Hội đồng Giám Mục Á châu là: cách thức truyền giáo cho Á châu, cách thức Phúc âm hoá Á châu là đối thoại. Điều mới mẻ là đối thoại được nâng lên tầm mức phổ quát trong suốt Thượng Hội đồng. “Tôi tin điều đó đã được chuẩn nhận. Tôi tin truyền giáo qua đối thoại sẽ là một phần của Tông huấn. Thế nên, tuy không có gì mới mẻ, chúng ta rất hạnh phúc vì vấn đề đối thoại mà một số người lo sợ, sẽ được đề xuất. Tất nhiên chúng ta sẽ chờ đợi, bởi vì lúc này chúng ta chưa có tông huấn của Đức Thánh Cha”.

– Một lãnh vực đặc biệt khác trong truyền giáo là tập trung vào việc kiến tạo hoà bình. Chính Đức giám mục Hamo, Nhật bản, thực sự đã thúc đẩy việc này, như là một trong những lãnh vực mà sứ mệnh yêu thương, phục vụ và sự sống của Chúa Giêsu phải được tăng cường ở Á châu. Tôi thấy thật là tốt đang khi ngài nói đến điều đó, bài tham luận của ngài gần như là lời thú nhận công khai. Đức Cha đi ngược về thế chiến thứ 2; ngài nhắc lại một số việc bất công mà quân đội Nhật đã làm trong thời gian đó. Ngài nói rằng: Giáo hội ở Nhật đã không lên tiếng chống lại tất cả những việc vô nhân đạo đó. Ngài cũng nói thêm rằng, chúng ta phải thực sự dấn thân vào việc cổ võ hoà bình.  Đó là một cơ hội tuyệt vời. Tôi cảm nhận được một thứ gì đó chữa lành, tha thứ và hòa giải.

– Cuối cùng, một lãnh vực truyền giáo khác nữa ở Á châu là phát triển, thành lập và chuẩn bị tác nhân truyền giáo, tác nhân của sự sống Tin mừng. Ở đây trực giác căn bản của Liên Hội đồng Giám mục Á châu lại được khẳng định. Đã hẳn, Chúa Thánh Thần là tác nhân chính trong việc truyền giáo, nhưng tại Á châu, chính các Giáo hội địa phương, chứ không phải cá nhân, là tác nhân truyền giáo. Tất cả các thành phần khác nhau làm nên Giáo hội địa phương đều phải được thúc đẩy để truyền giáo. Thậm chí đã có đề nghị rằng, du khách và công nhân hải ngoại cũng có thể được chọn lựa để làm công việc truyền giáo. Tất cả các thành phần nghĩa là những người làm việc trong lãnh vực truyền thông xã hội, phụ nữ, gia đình, giới trẻ, giáo dân, tu sĩ các cộng đoàn sống đời tông đồ và các mục tử…

KẾT LUẬN

Như quí vị đã biết, không phải tất cả mọi điều trên đây đều mới mẻ. Chúng ta đã biết đến những lãnh vực khác nhau. Chúng ta không nên đặt những lãnh vực này tách rời khỏi những gì chúng ta đã nêu lên liên quan đến sứ mệnh truyền giáo của Chúa Giêsu, liên quan đến những thực tế của Á châu, và ý thức rằng: đóng góp độc đáo của chúng ta cho việc truyền giáo ở Á châu là niềm tin vào Đức Giêsu Kitô. Tôi không thể đi qua hết các chi tiết của Thượng Hội đồng ở đây. Thậm chí, tôi không chắc chắn Đức Thánh Cha sẽ bàn về các yếu tố này trong Tông huấn.

Tôi có một nhận xét kết thúc. Kết quả của Thượng Hội đồng sẽ được chia sẻ cho chúng ta trong tháng 11 này ở Á châu. Trước khi khai mạc Năm toàn xá của Giáo hội, tôi thích nhất là khi những kết quả và chủ đề của Thượng Hội đồng sẽ được chia sẻ cho tất cả chúng ta ở Á châu này. Trọng tâm là Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc. Thế nên, Giáo hội Á châu sẽ đối mặt với một thiên niên kỷ mới với cái nhìn tập trung vào Đức Giêsu Đấng Cứu Chuộc, Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế duy nhất.

Tôi nghĩ suy tư hậu Thượng Hội đồng sẽ cảnh giác chúng ta về sự kiện Chúa Giêsu không phải là sứ điệp độc nhất phải được loan báo trong công cuộc truyền giáo của chúng ta. Chúa Giêsu là nhà truyền giáo không thể thay thế được. Người sẽ vẫn là nhà thừa sai ở Á châu này. Như vậy, Người vừa là sứ điệp, vừa là tác nhân, Người là sứ điệp phải được loan báo. Người là nhà truyền giáo phải làm việc. Tôi tin một thách thức cơ bản đối với các Giáo hội Á châu là đảm nhận sứ mệnh ấy một cách nghiêm túc. Nếu Đức Giêsu không phải là sứ điệp; nếu Đức Giêsu không phải là sứ điệp cũng chẳng phải là nhà truyền giáo; khi ấy chúng ta đang phản bội chính Người là Đấng Cứu Thế. Đối với Người, là Đấng Cứu Thế duy nhất có nghĩa là Người không những là sứ điệp mà còn là Người sẽ thực thi công việc truyền giáo của chính mình .

Công việc của chúng ta chỉ là sự đóng góp hết sức khiêm tốn. Chúng ta không thay thế cho Đức Giêsu được. Chúng ta không thể thay thế cho Thánh Thần của Người. Chúng ta chỉ là số lượng thêm vào của một Giáo hội nhận thức đang chờ đợi Thiên Chúa chỉ  cho chúng ta biết nơi mà chúng ta sẽ phải quăng lưới ở chỗ nào. Nhưng Ngài phải hướng dẫn mẻ lưới, bởi vì Ngài chính là nhà truyền giáo. Tôi không biết chuyển dịch điều đó thành những lãnh vực cụ thể trong vấn đề truyền giáo như thế nào. Tuy nhiên, tôi thiết nghĩ trong tất các các lĩnh vực truyền giáo mà Đức Thánh Cha sẽ đề nghị cho chúng ta xem xét trong Tông huấn của ngài, có một thách thức cơ bản. Chúng ta phải có tinh thần thiêng liêng nhiều hơn. Chúng ta phải chấn chỉnh quan điểm truyền giáo của chúng ta: Chúa Giêsu là nhà truyền giáo, và chúng ta chỉ cộng tác vào sứ mệnh truyền giáo của Ngài.

Bishop Luis Antonio “Chito” Tagle
Kroeger, James H. Asia-Church in Mission

Chia sẻ