Việc tôn kính Lòng Chúa thương xót có khác với việc tôn kính Thánh Tâm không? - (Nhân thông điệp Dilexit nos của ĐTC Phanxicô mới công bố)
Cách đây 7 năm, Đức Thánh Cha Phanxicô đã mở năm thánh Lòng Thương Xót, mời gọi các tín hữu khám phá lại lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, Đấng đón nhận tất cả mọi người và đích thân đến gặp từng người. Ngày 24/10/2024 vừa qua, cũng chính Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành Thông điệp về Thánh Tâm Chúa Giêsu Kitô mang tên “Dilexit nos” (Người đã yêu thương chúng ta), mời gọi chúng ta canh tân lòng sùng kính đích thực của mình để không quên sự dịu dàng của đức tin, niềm vui của việc hiến thân phục vụ và lòng nhiệt thành của sứ mạng.
Vậy, việc tôn kính Lòng Chúa thương xót có khác với việc tôn kính Thánh Tâm không? Vào năm thánh Lòng Thương Xót, năm 2017, Linh mục Giuse Phan Tấn Thành, OP., đã có những suy tư về chủ đề này.
VIỆC TÔN KÍNH LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT CÓ KHÁC VỚI VIỆC TÔN KÍNH THÁNH TÂM KHÔNG?
Chúng ta đang ở trong tháng 6, được dành để kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Những năm gần đây, nảy sinh phong trào tôn kính Lòng Chúa thương xót. Hai việc tôn kính ấy có gì khác nhau không?
Trước hết, tôi xin trả lời vắn tắt, rồi sau đó sẽ giải thích rộng hơn. Câu trả lời vắn tắt là: “không có gì khác nhau hết”, bởi vì cả hai đều quy về Chúa Giêsu Kitô, đấng đã mạc khải tình thương Thiên Chúa đối với loài người chúng ta, không chỉ bằng lời nói mà còn bằng chính việc hiến mạng sống vì chúng ta. Những sự khác biệt giữa hai hình thức tôn kính chỉ xoay quanh đôi ba hình thức thứ yếu. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng tất cả các việc tôn kính đều nhắm đến một ngôi vị, một chủ thể, chứ không bao giờ dừng lại ở hình thức hoặc tước hiệu bên ngoài. Chẳng hạn như khi tôn kính Đức Mẹ Mân côi, Đức Mẹ Carmêlô, Đức Mẹ hằng cứu giúp, Đức Mẹ Lộ đức, Đức Mẹ Fatima, Đức Mẹ Lavang, Trái tim Đức Mẹ, vân vân, thì tất cả đều nhắm đến bản thân của Đức Maria, thân mẫu của Chúa Cứu thế và của Hội thánh. Chúng ta đừng nên dừng lại ở tước hiệu, nhưng hãy nhìn đến Đức Mẹ, để bày tỏ lòng kính mến cũng như bắt chước gương các nhân đức. Trở lại với đề tài mà chúng ta đang bàn, việc tôn kính Thánh Tâm Chúa Giêsu và việc tôn kính lòng thương xót của Chúa đều hướng đến Chúa Giêsu. Hơn thế nữa, chúng ta phải nói thêm rằng có nhiều hình thức tôn kính Thánh Tâm Chúa Giêsu đã trải qua lịch sử Giáo hội.
Lòng tôn kính Thánh Tâm Chúa Giêsu bắt đầu từ hồi nào?
Hầu hết những bức ảnh vẽ Thánh Tâm Chúa Giêsu được trưng bày trong các nhà thờ nhà nguyện Công giáo đều dựa theo phong trào mà thánh nữ Margarita Margarita Alacoque cổ động. Thánh nữ là một tu sĩ dòng Thăm viếng, sinh năm 1648 và qua đời năm 1690, nghĩa là thuộc hậu bán thế kỷ XVII. Tuy nhiên, những tác phẩm thần học về Trái tim Chúa Giêsu đã xuất hiện từ thế kỷ XII, chẳng hạn như thánh Albertô Cả, chân phúc Henri Suso dòng Đaminh, đó là chưa kể những giáo phụ như Origène, Augustinô. Trong số những nhà thần bí nói đến Thánh Tâm vào thời kỳ ấy, nổi tiếng nhất là thánh nữ Gertruđê, sinh năm 1256 và qua đời năm 1301, đan sĩ dòng Xitô thuộc đan viện Hefta bên Đức, với tác phẩm “Sứ giả của lòng Chúa thương xót”. Sang thế kỷ XIV, chúng ta thấy thánh nữ Catarina Siena đã viết rất nhiều về lòng thương xót của Thiên Chúa, nhưng Người không gắn với việc tôn sùng Trái tim; có chăng là Người nhận thấy biểu tượng của lòng thương xót ở nơi bửu huyết của Chúa. Dù sao, việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa được phổ biến kể từ thế kỷ XVII, nhờ hai vị thánh nổi tiếng là thánh Jean Eudes và thánh Margarita Maria Alacoque. Vị thánh linh mục Jean Eudes sinh năm 1601 và qua đời năm 1680, đã thành lập hai dòng tu, một nam một nữ, mang tên là Hai Trái tim (nghĩa là: Trái tim Chúa Giêsu và Trái tim Đức Mẹ), cũng như cổ động việc thiết lập một lễ phụng vụ kính Thánh Tâm. Nên biết là theo thánh Jean Eudes, trái tim là điểm trung tâm của con người, vì thế tượng trưng cho chính bản thân Chúa Giêsu, nơi gặp gỡ tình yêu với Chúa Cha, với nhân loại, với vũ trụ. Vị thánh thứ hai của thế kỷ XVII là thánh nữ Margarita Maria Alacoque thuộc dòng Thăm viếng, nhưng các văn phẩm được phổ biến nhờ vị linh hướng là thánh Claude de la Colombière. Người ta thường coi hai vị thánh này là những cổ động viên cho lòng tôn kính Thánh Tâm trong toàn thể Hội thánh, được các đức giáo hoàng ủng hộ không những qua việc thiết lập lễ phụng vụ mà còn qua nhiều văn kiện, quan trọng nhất là đức Piô XII với thông điệp Haurietis aquas năm 1956.
Khi tôn kính Thánh Tâm là chúng ta tôn kính tình yêu của Chúa phải không?
Chắc chắn rồi. Điều này đã được giải thích bởi các nhà thần học từ thời Trung cổ cũng như trong các văn kiện của các giáo hoàng cận đại. Chúng ta có thể trưng dẫn một đoạn văn điển hình là số 478 của Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo viết như sau: “Thánh Tâm Chúa Giêsu, chịu đâm thâu bởi tội lỗi của chúng ta và vì ơn cứu độ cho chúng ta, được coi như là dấu chỉ chính yếu và biểu tượng của tình yêu mà Chúa Cứu chuộc không ngừng yêu thương Thiên Phụ và tất cả mọi chúng sinh”. Trong lễ trọng kính Thánh Tâm, các bản văn Kinh thánh thường được trích dẫn hơn cả là cảnh Chúa Giêsu chết trên thập giá đã bị một tên lính đâm thâu, từ đó vọt ra máu và nước (Tin mừng theo thánh Gioan chương 19, câu 34).
Còn việc tôn kính lòng Chúa thương xót thì sao?
Tôn kính Thánh Tâm đã là tôn kính lòng Chúa thương xót rồi. Khi nói đến lòng tôn kính Chúa thương xót là chúng ta muốn nói đến hình thức tôn sùng được quảng bá do thánh nữ Faustina Kowalska. Vị thánh này sống vào tiền bán thế kỷ XX, sinh năm 1905 và qua đời năm 1938. Chị cũng là một người tôn sùng Trái tim Chúa Giêsu. Trong quyển Nhật ký, chị ghi lại lời tâm sự của Chúa như thế này: “Này con của ta, hãy biết rằng trái tim của ta là lòng thương xót. Từ biển thương xót này mà các ơn sủng trào ra khắp thế giới. Không linh hồn đến gần Ta mà không được an ủi đi ra về. Mọi nỗi lầm than đều được chôn vùi trong đáy của lòng thương xót của Ta, và mọi ơn huệ thánh hoá đều trào ra từ suối này”. Trong một đoạn khác của quyển Nhật ký, thánh nữ đã bộc lộ tâm tình thờ lạy Trái tim Chúa Giêsu ở trong bí tích Thánh Thể với những lời như sau: “Ôi bánh thánh hằng sống, là sức mạnh duy nhất của con, nguồn mạch của tình yêu và lòng thương xót, xin hãy ôm ấp thế giới và nâng đỡ các linh hồn yếu đuối. Ôi, thật là giây phút diễm phúc khi Chúa Giêsu để lại cho chúng ta quả tim đầy lòng thương xót của Người”. Như vậy, đối tượng của việc tôn kính Thánh Tâm và của việc tôn kính lòng Chúa thương xót cũng là một, đó là tình yêu của Chúa Giêsu dành cho nhân loại.
Như vậy, việc tôn kính lòng Chúa thương xót không thêm điều gì mới hay sao?
Lúc nãy, tôi đã lược qua lịch sử lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu, từ các nhà thần học và thần bí thế kỷ XIII, đến các hai vị thánh thế kỷ XVII, và các văn kiện Giáo hoàng trong thế kỷ XX. Các tác phẩm ấy không lặp đi lặp lại những điều đã biết, nhưng đào sâu hơn các khía cạnh súc tích của tình yêu Thiên Chúa. Trong bối cảnh này, chúng ta phải nhìn nhận rằng thánh nữ Faustina cũng góp phần vào việc giải thích sâu xa hơn về lòng thương xót của Chúa. Chúng ta không có giờ để đi sâu vào việc nghiên cứu tác phẩm của thánh nữ, và chỉ cần nhìn ngắm bức tranh về lòng Chúa thương xót thì đủ rõ. Bức tranh vẽ Chúa Giêsu phục sinh, đứng thẳng, mặc áo chùng trắng, và từ cạnh sườn của Chúa, tỏa ra hai chùm tia sáng màu đỏ và trắng. (Nên lưu ý là bức tranh không vẽ trái tim của Chúa). Như vậy, chúng ta có cảm tưởng là việc tôn kính này đi với mầu nhiệm Phục sinh. Trên thực tế, lễ kính lòng thương xót Chúa được mừng vào Chúa nhật thứ II Phục sinh. Đang khi đó, những bức tranh cổ điển trưng bày Thánh Tâm Chúa thì vẽ bức tranh một trái tim bừng cháy lửa, và chung quanh có quấn vòng gai. Điều này đưa chúng ta đến cuộc Thương khó của Chúa Giêsu. Như vậy, ta có thể nói rằng hai việc tôn kính trình bày hai khía cạnh của mầu nhiệm Vượt qua: một bên là thập giá, bên kia là cuộc phục sinh. Ngoài ra, tôi nghĩ rằng việc tôn kính lòng Chúa thương xót bổ khuyết cho vài điểm xem ra hơi tiêu cực của việc tôn kính Thánh Tâm Chúa. Thật vậy, trong lòng đạo đức bình dân, người ta cổ động lòng tôn kính Thánh Tâm với những lời kêu gọi của Chúa rất thảm thiết: “Này đây trái tim đã quá yêu thương loài người, nhưng luôn luôn bị phụ bạc”; vì thế các tín hữu hãy đền đáp lại tình yêu của Chúa qua việc đền tạ. Cách hình dung như vậy có vẻ hạ giá tình yêu của Chúa, ra như tình yêu này còn tính toán: yêu để được yêu lại; nếu không thì tủi! Tình yêu của Chúa đâu phải như thế! Đang khi đó, bức tranh về lòng thương xót của Chúa cho thấy những dòng suối hồng ân tuôn ra tràn trề từ cạnh sườn của Chúa Giêsu. Ở đây, con người được kêu gọi hãy mở rộng cửa để đón nhận những hồng ân của Chúa. Dĩ nhiên, nếu ta không đón nhận thì ta chịu thiệt thòi mà thôi, nhưng Thiên Chúa không ngừng ban phát ân sủng. Vì thế, ở đây, lời kêu gọi không nhấn mạnh đến việc con người hãy đáp trả tình yêu của Chúa, cho bằng hãy tin tưởng đến gần Chúa, dù mình tội lỗi đến mấy đi chăng nữa.
Đức thánh cha Gioan Phaolô II có viết một thông điệp về lòng Chúa thương xót phải không?
Đúng thế, nhưng nên cẩn thận để tránh hiểu lầm. Đức thánh cha Gioan Phaolô II đã biết đến chị Faustina Kowalska từ khi còn là giám mục Cracovia. Ngài đã tôn phong chân phước, hiển thánh cho chị và đã ấn định lễ kính lòng Chúa thương xót vào chúa nhật thứ II Phục sinh. Đây là điều mà ai cũng biết rồi. Mặt khác, ngài đã viết nhiều sứ điệp, huấn giáo về Thánh Tâm Chúa Giêsu, đặc biệt là sứ điệp nhân dịp 100 năm dâng hiến loài người cho Thánh Tâm, ký tại Varsavia ngày 11 tháng 6 năm 1999, tóm tắt những lần ngài đã can thiệp về đề tài Thánh Tâm. Thông điệp Dives in misericordia được ban hành ngày 30 tháng 11 năm 1980 bàn về lòng thương xót của Thiên Chúa. Tuy nhiên, ở đây, đối tượng suy niệm của thông điệp không phải là Đức Kitô nhưng là Đức Chúa Cha, Đấng đã mặc khải lòng thương xót qua đức Kitô. Thông điệp cũng đề cập đến Thánh Tâm Chúa Giêsu ở số 13. Từ đó, người ta cũng vạch ra một điểm mới trong việc tôn kính lòng thương xót của Chúa, đó là tuy hướng đến Chúa Giêsu phục sinh, nhưng mở rộng đến cả Ba ngôi Thiên Chúa. Dù nói gì đi nữa, điều quan trọng là chúng ta hãy tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu của Thiên Chúa.