Skip to content
Banner 10.2024
Ngôn ngữ

Thông điệp "Divinum illud munus" về Chúa Thánh Thần của Đức Thánh Cha Lêô XIII

BTT 01
2025-06-04 16:51 UTC+7 29
Giáo hội đã nhiều lần lên tiếng để bảo vệ tín điều về Chúa Thánh Thần (bắt đầu với công đồng Constantinopolis I, năm 381), nhưng cho đến nay chỉ mới có hai thông điệp được dành riêng cho Ngài. "Divinum illud munus" là thông điệp thứ nhất và là của Đức Thánh Cha Lêô XIII, và phải chờ đến năm 1986 mới thấy ra đời thông điệp thứ hai, "Dominum et vivificantem", của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II.

Thông điệp

Divinum illud munus

Của Đức Thánh Cha Lêô XIII

Về sự hiện diện và quyền năng huyền diệu của Chúa Thánh Thần

------------

Giới thiệu

          Nói đến Đức Thánh Cha Lêô XIII (1810-1903), người ta thường nghĩ đến thông điệp Rerum novarum (ban hành ngày 15-1-1891), mở đầu cho Giáo huấn xã hội của Giáo hội, nhưng ít người biết rằng ngài là tác giả của thông điệp thứ nhất trong lịch sử bàn về Chúa Thánh Thần (ban hành ngày 9-5-1897). Thật vậy, Giáo hội đã nhiều lần lên tiếng để bảo vệ tín điều về Chúa Thánh Thần (bắt đầu với công đồng Constantinopolis I, năm 381), nhưng cho đến nay chỉ mới có hai thông điệp được dành riêng cho Ngài: đây là thông điệp thứ nhất, và phải chờ đến năm 1986 mới thấy  ra đời thông điệp thứ hai Dominum et vivificantem của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II.

          Thật là thú vị khi biết được tiền sử và hậu trường của thông điệp Divinum illud munus. Hai năm trước đó, nhân dịp lễ Ngũ Tuần (ngày 5-5-1895), ĐTC Lêô XIII viết đoản dụ Provida Matris Charitate thiết lập tuần cửu nhật (từ lễ Thăng Thiên đến Lễ Hiện Xuống) để chuẩn bị mừng lễ Ngũ Tuần. Sau đó, vào ngày 18-4-1902,  Bộ Nghi Lễ còn gửi cho các giám mục trên thế giới một bức thư Ad fovendum in christiano populo nhắc nhở việc tổ chức tuần cửu nhật. Đàng sau các văn kiện này (vì thế gọi là hậu trường) là thánh nữ Elena Guerra (1835-1914) đã nhiều lần viết thư thỉnh cầu Đức Thánh Cha hãy cổ động lòng sùng kính Thánh Linh, để cầu xin ơn canh tân đức tin cho thế giới và ơn hiệp nhất các Kitô hữu. Trong lễ nghi phong chân phước cho chị (ngày 26-4-1959), Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã gọi chị là “Tông đồ của Thánh Linh” (cũng tương tự như thánh Margarita Maria Alacoque mang danh xưng là “Tông đồ của Thánh Tâm Chúa Giêsu). Chị được tuyên thánh ngày 24-10-2024.

          Trên mạng Internet của Vatican (Vatican.va/content/leo-xiii/en/encyclicals/documents/hf_l-xiii_enc_09051897_divinum-illud-munus.html), có đăng các bản văn bằng tiếng Latinh (trích từ ASS 29, 1896-97, trang 644-653), tiếng Anh, tiếng Tây-ban-nha. Bản văn tiếng Tây-ban-nha được phân chia thành bốn phần và 17 đoạn. Chúng tôi xin giới thiệu vắn tắt nội dung như sau.

          Trong Nhập đề (phần thứ nhất), Đức Thánh Cha nêu lên hai mục tiêu chính trong sứ vụ của mình, đó là: phục hưng đời sống Kitô giáo trong đời sống xã hội; cổ vũ sự hợp nhất Hội thánh.

          Phần thứ hai mang tính cách tín lý. Cần có cái nhìn chính xác về vai trò của Thánh Linh trong mầu nhiệm Tam Vị. Tuy tất cả mọi công trình đều là chung cho Ba Ngôi. Nhưng truyền thống quen quy gán (appropriatio) Quyền năng cho Chúa Cha, Cao minh cho Chúa Con, Tình yêu cho Thánh Linh. Đặc biệt số 6 trình bày vai trò của Thánh Linh trong cuộc Nhập thể của Đức Giêsu.

          Phần thứ ba bàn cách riêng đến tác động của Thánh Linh trong Hội thánh, không những nơi các tông đồ, giám mục, linh mục, mà còn trong linh hồn những người công chính. Thánh Thần được ví như linh hồn của Hội thánh, cũng như Đức Kitô được ví là Đầu của Thân thể mầu nhiệm. Chúng ta có thể coi đây như một chương của Giáo hội học, cũng như một chương của thần học tâm linh, dưới đề tài “Thánh Linh cư ngụ (inhabitatio) trong linh hồn” (habitatio có nghĩa là làm nhà ở), cũng như đạo lý về bảy ân huệ và các hoa trái của Thánh Linh.

          Phần thứ bốn mang tính cách khuyến dụ. Trước hết, thông điệp kêu gọi truyền bá đạo lý về Thánh Linh (bởi vì trên thực tế, nhiều người chưa được nghe nói đến Ngài), cũng như cỗ vũ việc yêu mến, tôn kính và cầu khẩn Ngài, đặc biệt qua tuần Cửu nhật chuẩn bị lễ Ngũ tuần.

          Văn kiện kết thúc với việc nhắc đến tương quan giữa Thánh Linh với Đức Trinh nữ Maria.

          Tóm lại, sau khi đã bàn đến Thánh Linh trong mầu nhiệm Thiên Chúa Tam Vị, trong cuộc đời Đức Giêsu và trong Hội Thánh, Đức Thánh Cha dừng lại ở sự hiện diện của Thánh Linh trong tâm hồn mỗi người tín hữu. Như vậy, đây không chỉ là thông điệp đầu tiên bàn về Thánh Linh trong đời sống Hội thánh, mà còn đào sâu một nét đặc biệt của huyền bí Kitô giáo, đó là Thánh Linh (nghĩa là cả Thiên Chúa Tam Vị) đến cư ngụ trong linh hồn người công chính (x. Ga 14,23). Đây là một lời mời gọi hãy chú trọng đến đời sống nội tâm tuy không bỏ qua những hoạt động bác ái khác của ơn gọi Kitô hữu.

 

Bản dịch của Học viện Đa Minh, Gò Vấp.


 

 

 Nội dung

I. Nhập đề (số 1-2)

II. Mầu nhiệm Tam Vị 

          A. Ý nghĩa của mầu nhiệm (số 3-4)

          B. Những sự quy gán cho mỗi Ngôi vị (số 5)

          C. Thánh Linh với Chúa Giêsu (số 6)

III. Thánh Linh và Hội thánh

          A. Các tông đồ, giám mục, linh mục (số 7)

          B. Sự hiện diện trong linh hồn những người công chính (số 8-9)

          C. Các bí tích (số 10)

          D. Sự cư ngụ (số 11)

          E. Bảy ân huệ và các hoa trái (số 12)

IV. Khuyên nhủ

          A. Cổ vũ sự hiểu biết (số 13)

          B. Đừng làm phiền lòng Thánh Linh (số 14)

          C. Cầu khẩn Thánh Linh (số 15)

          D. Tuần cửu nhật (số 16)

V. Kết luận. Thánh Linh và Đức Maria (số 17)

 

---------

 

I. NHẬP ĐỀ

1. Sứ vụ thần linh mà Đức Giêsu Kitô đã lãnh nhận từ Chúa Cha vì lợi ích nhân loại, và đã hoàn tất một cách viên mãn, có mục đích tối hậu là dẫn đưa con người vào thông dự đời sống hạnh phúc trong vinh quang vĩnh cửu; và mục đích trực tiếp là, trong cuộc đời trần thế, con người được sống trong ân sủng thần linh, ân sủng mà sau này sẽ đơm hoa kết trái thành sự sống trên trời.

Vì thế, Đấng Cứu Thế của chúng ta không ngừng mời gọi hết thảy mọi người, thuộc mọi dân tộc và ngôn ngữ, hãy vào lòng Hội Thánh duy nhất: “Hết mọi người hãy đến với Tôi; Tôi là sự sống; Tôi là mục tử nhân lành”. Hơn nữa, theo những kế hoạch cao siêu của Thiên Chúa, Người không muốn tự mình hoàn toàn thực hiện và kết thúc sứ vụ ấy trên trần thế, nhưng cũng như Người đã nhận lãnh từ Chúa Cha, Người trao lại cho Chúa Thánh Thần để hoàn tất. Thật an ủi khi nhớ lại những lời hứa mà Đức Kitô đã ban cho các môn đệ trước khi Người về trời: “Thật có lợi cho các con nếu Thầy ra đi, vì nếu Thầy không đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với các con; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Người đến với các con” (Ga 16,7).

Qua những lời này, Người đã cho biết lý do chính của sự ra đi của mình và sự trở về với Chúa Cha, đó là vì lợi ích chắc chắn sẽ đến cho các môn đệ nhờ việc Chúa Thánh Thần đến, đồng thời Người cũng xác định rõ Chúa Thánh Thần được sai đến và phát xuất từ cả Người và Chúa Cha; Chúa Thánh Thần sẽ hoàn tất, trong tư cách làm Đấng Bào Chữa, Đấng An Ủi và Thầy Dạy, công trình mà chính Đức Kitô đã khởi đầu trong cuộc đời phàm trần. Vì trong công trình cứu chuộc thế gian, việc hoàn tất được sự Quan Phòng Thiên Chúa dành cho quyền năng đa dạng của Thần Khí ấy, Đấng đã “trang hoàng bầu trời” trong công trình sáng tạo (G 26,13), và “tràn ngập địa cầu” (Kn 1,7).

2. Với ơn trợ giúp của Đức Kitô, Đấng Cứu Thế của chúng ta, Vị Mục Tử Tối Cao và Giám Mục linh hồn chúng ta, chúng tôi đã cố gắng hết lòng bắt chước Người, chăm chỉ thi hành sứ vụ mà Người đã giao phó cho các Tông Đồ, nhất là cho thánh Phêrô, “mà phẩm giá được duy trì ngay cả nơi người kế vị bất xứng”[1]. Nhằm thực hiện mục đích đó, trong suốt triều đại giáo hoàng, chúng tôi đã kiên trì hướng tất cả các hoạt động về hai mục tiêu chính: thứ nhất, khôi phục các nguyên tắc của đời sống Kitô giáo trong gia đình và xã hội, trong những nhà cầm quyền và các dân tộc, vì không có sự sống đích thực cho con người ngoài Đức Kitô; thứ hai, thúc đẩy sự hòa giải với Hội thánh về phía của những người đã rời bỏ Hội thánh Công giáo do lạc giáo hay ly giáo; bởi vì không còn nghi ngờ gì nữa, đó là ý muốn của Đức Kitô: mọi người phải được quy tụ trong một đàn chiên dưới một Mục Tử duy nhất.

Giờ đây, khi nhìn về những ngày cuối đời mình, tâm hồn chúng tôi xúc động sâu xa dâng hiến cho Chúa Thánh Thần, Đấng là Tình Yêu ban sự sống, toàn bộ công việc đã làm trong triều đại giáo hoàng, để Người hoàn thiện và sinh hoa kết quả. Để thực hiện ý nguyện này một cách trọn vẹn hơn, chúng tôi quyết định gửi đến anh em, vào lễ Ngũ Tuần sắp đến, những lời về sự hiện diện và quyền năng nhiệm mầu của Chúa Thánh Thần; cũng như về phạm vi và hiệu quả hoạt động của Người trong toàn thân thể Hội Thánh và từng tâm hồn tín hữu, qua sự ban tặng các ân huệ và đặc sủng. Chúng tôi tha thiết mong ước kết quả là đức tin được đánh thức trong tâm trí anh em mầu nhiệm cao cả về Ba Ngôi Thiên Chúa, và đặc biệt lòng mộ mến được gia tăng và bừng cháy đối với Chúa Thánh Thần, Đấng mà cách riêng biệt tất cả chúng ta đều mang ơn vì đã cho chúng ta được đi theo con đường chân lý và nhân đức; vì như Thánh Basiliô đã nói: “Tất cả kế hoạch cứu độ liên quan đến con người, được thực hiện nhờ Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa và Đấng Cứu Thế chúng ta, đã được hoàn tất nhờ ơn Chúa Thánh Thần”[2].

II. Mầu Nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa

3. Trước khi đi vào chủ đề này, chúng tôi thấy cần thiết và hữu ích nói đôi điều về Mầu Nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.

Mầu nhiệm này, mầu nhiệm vĩ đại nhất trong các mầu nhiệm, được các tiến sĩ Hội thánh gọi là “cốt lõi của Tân Ước”, bởi vì đây là nguyên uỷ và cùng đích của tất cả các mầu nhiệm khác. Để nhận biết và chiêm ngắm mầu nhiệm này, các thiên thần được tạo dựng trên trời và con người được tạo dựng dưới đất. Để dạy dỗ đầy đủ hơn về mầu nhiệm này, vốn chỉ được báo trước trong Cựu Ước, chính Thiên Chúa đã từ trời xuống với con người: “Chưa ai từng thấy Thiên Chúa bao giờ; Con Một duy nhất, Đấng ngự trong lòng Chúa Cha, Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18). Vì thế, ai viết hoặc nói về Ba Ngôi Thiên Chúa, phải luôn ghi nhớ lời cảnh tỉnh khôn ngoan của thánh Tôma Aquinô: “Khi chúng ta nói về Ba Ngôi, phải thận trọng và khiêm tốn, vì như thánh Augustinô nói, không vấn đề nào có nhiều lỗi lầm nguy hiểm hơn, cũng không nơi nào nghiên cứu khó khăn hơn, và không nơi nào phát hiện phong phú hơn”[3]. Nguy hiểm đó là có thể nhầm lẫn các Ngôi Vị Thiên Chúa trong đức tin hay phụng thờ, hoặc tách rời Bản Thể duy nhất trong các Ngôi Vị: “Đức tin Công giáo dạy rằng chúng ta phải thờ phượng một Thiên Chúa trong Ba Ngôi và Ba Ngôi trong Một Thiên Chúa.”

          A. Những sai lạc

4. Vì vậy, vị tiền nhiệm của chúng tôi, Đức Giáo Hoàng Innocentô XII, đã hoàn toàn bác bỏ lời thỉnh cầu của những người muốn lập ngày lễ riêng kính Đức Chúa Cha. Dù các mầu nhiệm liên quan đến Ngôi Lời nhập thể được mừng kính vào những ngày nhất định, nhưng không có lễ đặc biệt nào chỉ để tôn kính Ngôi Lời như là Ngôi vị Thiên Chúa. Ngay cả Lễ Ngũ Tuần cũng được thiết lập từ xa xưa, không chỉ để tôn kính chính bản thân Chúa Thánh Thần, nhưng để kỷ niệm ngày Người ngự đến hoặc sứ vụ ngoại tại của Người. Tất cả được sắp đặt khôn ngoan nhằm tránh để việc phân biệt các Ngôi Vị dẫn đến sự phân biệt Bản Thể Thiên Chúa. Hơn nữa, để giữ gìn sự trong sạch của đức tin trong con cái Hội thánh, Hội thánh đã thiết lập Lễ Ba Ngôi, và Đức Gioan XXII đã mở rộng lễ này cho toàn thể Hội thánh. Ngài cũng cho phép các thánh đường và bàn thờ được dâng kính Ba Ngôi, và sau khi nhận được thị kiến, đã phê chuẩn một Dòng tu mang danh hiệu Chúa Ba Ngôi, nhằm cứu các kẻ nô lệ.

Cần nói thêm rằng việc tôn kính dành cho các thánh và thiên thần, Mẹ Thiên Chúa và chính Đức Kitô, cuối cùng đều làm vinh danh Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong các lời kinh hướng đến một Ngôi Vị, cũng có nhắc đến các Ngôi Vị khác; trong các kinh cầu, sau khi đã nhắc riêng mỗi Ngôi Vị, cuối cùng cũng thêm lời khẩn cầu chung cho cả Ba Ngôi; tất cả các thánh vịnh và thánh thi đều kết thúc bằng lời ngợi ca Ba Ngôi Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần; các lời chúc tụng, các nghi thức thánh và bí tích đều được cử hành nhân danh hoặc được kết thúc bằng lời kêu gọi Ba Ngôi. Tất cả những điều này đã được Thánh Phaolô loan báo qua những lời: “Tất cả đều bởi Người, nhờ Người và trong Người; vinh danh Thiên Chúa muôn đời” (Rm 11,36), vừa nói đến Ba xét theo Ngôi vị vừa nói đến Một xét theo Bản tính: bởi vì vinh quang và danh dự đều ngang nhau cho mỗi Ngôi vị, như là như một Thiên Chúa duy nhất. Thánh Augustinô bình luận điều ấy như sau: “Câu ‘bởi Người’ chỉ về Chúa Cha, ‘nhờ Người’ chỉ về Chúa Con, ‘trong Người’ chỉ về Chúa Thánh Thần”[4].

          B. Việc quy gán

5. Hội Thánh thường quy gán những công trình quyền năng cho Chúa Cha, những công trình khôn ngoan cho Chúa Con, và công trình yêu thương cho Chúa Thánh Thần. Không phải tại vì mọi sự hoàn hảo và công trình bên ngoài (ad extra) không phải là chung cho Ba Ngôi, bởi lẽ “các công trình của Ba Ngôi không thể chia cắt, cũng như bản thể Ba Ngôi không thể chia cắt”[5]; bởi vì Ba Ngôi “không thể tách rời cho nên cũng hành động không thể tách rời”[6]. Nhưng do sự tương tự và sự liên hệ giữa công trình và đặc tính của các Ngôi, cho nên các công trình được quy gán cho hoặc “thuộc về” một Ngôi Vị này hơn các Ngôi vị khác. “Cũng như chúng ta dùng những dấu hiệu tương đồng hay giống nhau tìm thấy trong các thụ tạo để biểu lộ các Ngôi Vị Thiên Chúa, thì chúng ta cũng áp dụng cho các ưu phẩm của Thiên Chúa; và sự biểu lộ các ưu phẩm được gọi là sự “quy gán” (appropriatio)[7].

Như vậy, Chúa Cha, là “nguyên uỷ của tất cả Tam vị”[8], cũng là nguyên nhân tác thành của muôn vật, nguyên nhân của việc Ngôi Lời nhập thể và nguyên nhân của sự thánh hóa các linh hồn; “tất cả đều bởi Người” xét trong tương quan với Chúa Cha. Chúa Con,  là Lời và Hình ảnh của Thiên Chúa, cũng là nguyên nhân mẫu mực, từ đó muôn vật nhận lấy hình thể, vẻ đẹp, trật tự và sự hài hòa. Người là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống cho chúng ta; Đấng làm cho con người được hòa giải với Thiên Chúa. “Tất cả đều nhờ Người,” xét trong tương quan với Ngôi Con.  Thánh Thần là nguyên nhân cuối cùng của muôn vật, bởi vì cũng như ý muốn và các sự vật khác cuối cùng hướng về mục đích, thì Người, Đấng là Thiện Hảo và Tình Yêu hỗ tương của Chúa Cha và Chúa Con, cũng thúc đẩy và hoàn tất, bằng quyền năng mạnh mẽ mà êm dịu, công trình cứu độ vĩnh cửu của nhân loại. “Tất cả đều trong Người,” xét trong tương quan với Chúa Thánh Thần.

          C. Chúa Thánh Thần và Đức Giêsu Kitô

6. Sau khi đã xác định những hành vi tin kính và thờ phượng xứng đáng dành cho Ba Ngôi Thiên Chúa, và điều ấy cần được truyền giảng ngày càng sâu rộng nơi dân Kitô, bây giờ chúng tôi xin bàn về quyền năng của Chúa Thánh Thần. Trước hết, chúng ta phải hướng về Đức Kitô, Đấng Sáng Lập Hội Thánh và Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Trong tất cả các công trình ra bên ngoài Thiên Chúa, cao cả nhất là mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Lời; nơi mà sự rực rỡ của các ưu phẩm thần linh tỏ lộ sáng ngời đến mức không gì cao cả hơn có thể tưởng tượng được, cũng không có điều gì hữu ích hơn cho phẫn rỗi của nhân loại. Công trình này, mặc dù thuộc về toàn thể Ba Ngôi, vẫn được gán riêng cho Chúa Thánh Thần, nên Tin Mừng đã ghi lại về Đức Trinh Nữ Maria: “Bà đã thụ thai bởi Chúa Thánh Thần”, và “người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,18.20). Điều này có lý bởi vì với Thánh Thần là Tình Yêu của Chúa Cha và Chúa Con, và mầu nhiệm cao cả này (1Tm 3,16), tức là việc Nhập Thể, phát xuất từ lòng yêu thương vô hạn của Thiên Chúa dành cho con người, như Thánh Gioan nói: “Thiên Chúa quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người” (Ga 3,16). ơn nữa, bản tính nhân loại được tôn vinh lên sự hiệp nhất cá vị với Ngôi Lời; và phẩm giá ấy không do công trạng nào, nhưng hoàn toàn và tuyệt đối nhờ ân sủng, và có thể nói là nhờ món quà đặc biệt của Chúa Thánh Thần. Về điểm này, Thánh Augustinô viết: “Cách thức Đức Kitô được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần cho chúng ta thấy lòng nhân hậu của Thiên Chúa, bởi vì nhân tính, chẳng có công trạng gì trước đó, ngay từ khoảnh khắc đầu tiên đã được hiệp nhất mật thiết với Ngôi Lời, đến mức một vì vừa Con Thiên Chúa và cũng là Con của loài người”[9].

Nhờ công trình của Chúa Thánh Thần, không chỉ có việc thụ thai Đức Kitô được thực hiện, mà còn sự thánh hóa linh hồn Người, được Kinh Thánh gọi là “xức dầu” (Cv 10,38). Vì thế, mọi hành động của Người đều “được thực hiện dưới ảnh hưởng Chúa Thánh Thần”[10], Đấng đã hợp tác cách đặc biệt vào hy tế của Người, theo lời thánh Phaolô: “Đức Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần, đã dâng chính mình lên Thiên Chúa như một hy lễ tinh tuyền” (Dt 9,14). Hiểu như vậy, không lạ gì mà tất cả mọi ân tặng của Chúa Thánh Thần tràn ngập tâm hồn Đức Kitô. Người mang đầy trọn sự viên mãn của ân sủng, cách trọn vẹn và hữu hiệu nhất; trong Người có mọi kho tàng khôn ngoan và tri thức, mọi thứ đặc sủng, nhân đức và các quà tặng khác đã được tiên tri Isaia báo trước (Is 4,1; 11,2-3), và cũng được biểu tượng qua chim bồ câu kỳ diệu xuất hiện trên sông Giođan, khi Đức Kitô chịu phép rửa, làm thánh hóa dòng nước cho một giao ước mới.

Về điều này, thánh Augustinô có lý khi nhận xét rằng: “Không phải Đức Kitô nhận Chúa Thánh Thần lúc lên ba mươi tuổi, bởi vì Người đến chịu phép rửa mà không có tội và đã có Chúa Thánh Thần rồi. Chính lúc đó (tức lúc chịu phép rửa), Người muốn tiên trưng cho Hội Thánh, trong đó đặc biệt những người chịu phép rửa sẽ nhận được Chúa Thánh Thần”[11]. Như thế, sự xuất hiện hữu hình của Chúa Thánh Thần trên Đức Kitô và quyền năng vô hình trong linh hồn của Người tượng trưng cho hai sứ vụ của Thần Khí: sứ mạng bên ngoài và hữu hình trong Hội Thánh, và sứ mạnh vô hình trong tâm hồn những người công chính.

III. Chúa Thánh Thần và Hội Thánh

          A. Nơi các Tông Đồ, Giám Mục và Linh mục

7. Hội Thánh, vốn đã được thai nghén và sinh ra từ cạnh sườn của ông Ađam thứ hai trên Thập Giá, xuất hiện trước mắt nhân loại lần đầu tiên vào ngày đại lễ Ngũ Tuần. Vào ngày ấy, Chúa Thánh Thần bắt đầu bày tỏ các ân tặng trong thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô, qua việc đổ tràn ân sủng kỳ diệu đã được tiên tri Gioen dự báo (Gl 2,28-29), khi Đấng Bào Chữa “ngự xuống trên các Tông Đồ như những vòng nguyệt quế thiêng liêng, dưới hình lưỡi lửa, đặt trên đầu họ”[12].

Sau đó, các Tông Đồ “xuống núi”, như thánh Gioan Kim Khẩu viết, “không mang theo những tấm bia đá như ông Môsê, nhưng mang Chúa Thánh Thần trong tâm hồn, và tuôn đổ kho tàng và nguồn mạch các chân lý và các đặc sủng”[13]. Như vậy, lời hứa cuối cùng của Đức Kitô với các Tông Đồ về việc phái Chúa Thánh Thần đã được hoàn tất, Người sẽ hoàn thành và ra như đóng ấn kho tàng mặc khải nhờ linh hướng của Người. “Thầy còn nhiều điều muốn nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không thể chịu nổi; nhưng khi Thần Khí Sự Thật đến, Người sẽ dạy anh em sự thật toàn vẹn” (Ga 16,12-13). Chúa Thánh Thần là Thần Khí Sự Thật bởi vì phát xuất từ Chúa Cha là Chân lý hằng hữu, và từ Chúa Con là Chân lý nòng cốt; từ cả hai Ngôi, Thánh Thần lãnh nhận bản tính và chân lý vẹn toàn, để rồi truyền thông cho Hội Thánh, giữ gìn Hội Thánh khỏi sai lạc, giúp Hội Thánh ngày càng sinh sôi các mầm mống mặc khải và sinh hoa kết quả nhằm ơn cứu độ muôn dân. Vì Hội Thánh, được thành lập như phương tiện cứu rỗi, phải tồn tại cho đến tận thế, cho nên Chúa Thánh Thần liên tục ban sự sống và sức mạnh để Hội Thánh được tăng trưởng sức sống và nhân đức. “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Cha sẽ ban cho anh em Đấng Bào Chữa khác, Thần Khí Sự Thật, để ở với anh em luôn mãi” (Ga 14,16-17).

Nhờ Thánh Thần mà các Giám Mục được thiết lập; các ngài không chỉ sinh ra các con cái mà cả các người cha nữa, tức là các linh mục, để cai quản và chăm sóc Hội Thánh, đã được cứu chuộc nhờ Máu Đức Kitô: “Chúa Thánh Thần đã đặt anh em làm người coi sóc, để chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa, mà Người đã mua bằng Máu của chính mình” (Cv 20,28). Các giám mục và linh mục cũng được ban quyền tha tội nhờ ân huệ đặc biệt của Thần Khí, theo lời Đức Kitô đã nói với các Tông Đồ: “Anh em hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần; anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23).

          B Trong linh hồn những người công chính

8. Không gì chứng tỏ rõ ràng tính cách thần linh của Hội Thánh cho bằng sự huy hoàng và vinh quang của các đặc sủng vây quanh như vòng triều thiên nhận được bởi Chúa Thánh Thần. Nên biết rằng, cũng như Đức Kitô là Đầu Hội Thánh, thì Chúa Thánh Thần như là Linh Hồn của Hội Thánh. “Như linh hồn trong thân xác thế nào, thì Chúa Thánh Thần trong thân thể Đức Kitô là Hội Thánh cũng như vậy”[14]. Vì thế, không nên tưởng tượng hay mong chờ sẽ có một  sự đổ tràn Thánh Linh nào trọn vẹn và  dồi dào hơn nữa; vì điều đang diễn ra trong Hội Thánh hiện tại là hoàn hảo nhất, và sẽ kéo dài đến ngày Hội Thánh, sau hành trình chiến đấu, sẽ được đưa lên hưởng niềm vui với các thánh trên trời.

Cách thức và phạm vi hoạt động của Chúa Thánh Thần trong từng tâm hồn cũng kỳ diệu không kém, mặc dù khó nhận biết hơn vì nó bị che khuất mọi tầm nhìn khả giác. Sự đổ tràn của Thần Khí dồi dào đến nỗi chính Đức Kitô, nguồn ban ơn ấy, đã ví như dòng sông chảy tràn, như thánh Gioan khẳng định: “Ai tin vào Thầy, như Kinh Thánh đã nói, từ trong lòng người ấy sẽ tuôn ra những dòng sông nước sống” (Ga 7,38), và tác giả giải thích: “Người nói lời ấy về Thần Khí, mà những ai tin vào Người sẽ nhận được” (Ga 7,39).

9. Thật vậy, những người công chính sống trước Đức Kitô đã được Chúa Thánh Thần ngự nhờ ân sủng, như chúng ta đọc được trong Kinh Thánh về các ngôn sứ, về ông Dacaria, Gioan Tẩy Giả, ông Simeon và bà Anna. Không phải là kể từ lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần bắt đầu cư ngụ nơi các thánh; nhưng trong ngày ấy, Người tăng thêm các hồng ân, tỏ mình ra cách dồi dào bơn, ban phát rộng rãi hơn[15]. Dù họ đã là con cái Thiên Chúa, nhưng vẫn ở điều kiện đầy tớ, bởi vì “khi người thừa kế còn nhỏ, thì chẳng khác nào đầy tớ, mà còn chịu sự quản lý và giám hộ” (Gl 4,1-2). Hơn nữa, sự công chính của họ chỉ là nhắm đến công nghiệp của Đức Kitô sắp tới, và sự ban phát Chúa Thánh Thần sau Đức Kitô còn dồi dào hơn nữa, tựa như giá trị đích thực thì vượt xa số tiền bảo chứng, và cũng như thực tế vượt xa hình ảnh. Vì thế, thánh Gioan tuyên bố: “Thần Khí chưa được ban bởi vì Đức Giêsu chưa được tôn vinh” (Ga 7,39). Ngay sau khi Đức Kitô lên cao để chiếm hữu vinh quang vương quốc mà Người đã giành được bằng công lao to lớn, Người  rộng rãi mở ra kho tàng của mình, phân phát cho loài người các hồng ân Chúa Thánh Thần (Ep 4,8). “Không phải là trước đó Thánh Thần chưa được cử đến, nhưng Người chưa được ban giống như là sau khi Đức Kitô được tôn vinh”[16]. Lý do vì bản tính con người tự bản chất là đầy tớ Thiên Chúa: “Thụ tạo là đầy tớ; chúng ta là đầy tớ Thiên Chúa theo bản tính”[17]. Tệ hơn nữa, do tội nguyên tổ, toàn bộ bản tính chúng ta tụt xuống đến mức trở thành kẻ thù Chúa. “Chúng ta tự bản tính là con cái của sự thịnh nộ” (Ep 2,3). Không có quyền lực nào cứu ta thoát khỏi sự hủy diệt vĩnh cửu này. Nhưng Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa và vô hạn thương xót, đã làm điều này qua Con Một của mình, nhờ Người mà con người được phục hồi phẩm giá đã mất và được ban thêm muôn ân sủng phong phú. Không lưỡi nào có thể diễn tả hết sự vĩ đại của công trình ân sủng thần linh trong tâm hồn con người. Vì thế, cả trong Thánh Kinh lẫn trong các tác phẩm của các giáo phụ, con người được gọi là những kẻ được tái sinh, những thụ tạo mới, được tham dự bản tính thần linh, con cái Thiên Chúa, trở nên giống Thiên Chúa và các danh xưng tương tự. Những phúc lành cao cả này được gán cho Chúa Thánh Thần.

Người là Thần Khí làm cho ta nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta kêu lên: “Abba, Cha ơi”. Người lấp đầy lòng ta bằng tình yêu thương của Cha: “Chính Thần Khí làm chứng với thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa” (Rm 8,15-16). Để giải thích điều này Thánh Tôma so sánh hai hoạt động của Chúa Thánh Thần; nhờ Người “Đức Kitô được thụ thai trong sự thánh thiện, trở nên Con Thiên Chúa theo bản tính”, còn “những người khác được thánh hóa, trở nên con Thiên Chúa theo sự nhận làm nghĩa tử Thiên Chúa”[18]. Sự sinh ra thiêng liêng cao quý hơn sự sinh ra tự nhiên gấp bội, bởi vì là hoa trái của Tình yêu vĩnh cửu.

          C. Trong các bí tích

10. Sự tái sinh và đổi mới con người bắt đầu từ bí tích Rửa tội. Trong bí tích này, khi thần khí ô uế bị đuổi khỏi tâm hồn, Chúa Thánh Thần ngự vào và biến đổi tâm hồn cho giống Người. “Cái sinh ra bởi Thần Khí là thần khí” (Ga 3,6). Cũng Thần Khí ấy được ban dồi dào hơn trong bí tích Thêm Sức, củng cố và xác nhận đời sống Kitô hữu; Thần Khí ấy chiến thắng nơi các tử đạo và nơi các trinh nữ trước những các cám dỗ và nguy hiểm. Chúng tôi đã nói rằng Chúa Thánh Thần ban chính mình: “Tình yêu của Thiên Chúa đổ tràn trong lòng ta nhờ Chúa Thánh Thần được ban cho ta” (Rm 5,5). Thật vậy, Người không chỉ đem các quà tặng thần linh đến cho ta, mà chính Người là Chủ Nhân các quà tặng đó, là Món Quà Tối Cao, phát xuất từ tình yêu hỗ tương giữa Chúa Cha và Chúa Con, và được gọi là “Quà Tặng Thiên Chúa Tối Cao”. Để hiểu bản chất và hiệu quả của món quà này, ta hãy nhớ lời các tiến sĩ Hội Thánh giải thích lời Thánh Kinh: Thiên Chúa hiện diện trong mọi sự, “bằng quyền năng, bởi vì mọi vật ở dưới quyền năng Người; bằng sự hiện diện, bởi vì mọi vật trần trụi trước mắt Người; bằng bản thể, vì Người hiện diện trong như là nguyên nhân hiện hữu”[19].  Hơn nữa, Thiên Chúa ở trong con người không chỉ như trong vật vô tri, mà bởi vì Người được biết và yêu thương trọn vẹn hơn bởi con người, bởi vì bản tính tự nhiên chúng ta là yêu mến, khao khát và tìm kiếm điều tốt đẹp. Hơn nữa, nhờ ân sủng, Thiên Chúa ngự trong tâm hồn người công chính như một đền thờ, một cách rất thân mật và đặc biệt. Từ đó phát sinh sự kết hợp tình cảm mà linh hồn gắn bó mật thiết với Thiên Chúa, hơn cả sự kết hợp giữa những người bạn thân thiết nhất, và hưởng nếm Thiên Chúa trọn vẹn và ngọt ngào.

          D. Sự cư ngụ

11. Sự hiệp nhất kỳ diệu này, được gọi là “cư ngụ”, chỉ khác biệt với hạnh phúc trên trời xét theo mức độ hoặc trạng thái chứ không xét theo bản chất, tuy dù được thực hiện bởi sự hiện diện của Ba Ngôi: “Chúng ta sẽ đến trong người ấy và cư ngụ trong người ấy” (Ga 14,23), nhưng lại được quy gán một cách đặc biệt cho Chúa Thánh Thần. Và mặc dù vết tích của quyền năng và khôn ngoan của Thiên Chúa có thể xuất hiện ngay cả trong những người tội lỗi, nhưng duy chỉ người công chính mới có đức mến là dấu ấn đặc biệt của Chúa Thánh Thần.

Cần thêm rằng, Thần Khí được gọi là Thánh, bởi vì Người, vốn là Tình yêu nguyên khởi và hằng cửu, thúc đẩy và dẫn đưa chúng ta đến sự thánh thiện, mà cốt yếu là lòng yêu mến Thiên Chúa. Vì thế, thánh Phaolô gọi các người công chính là đền thờ của Thiên Chúa, nhưng không bao giờ nói là “của Chúa Cha” hoặc “của Chúa Con” nhưng là “của Thánh Thần”: “Anh em không biết rằng thân thể của mình là đền thờ của Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong anh em, bởi vì anh em đã lãnh nhận Người từ Thiên Chúa đó sao?” (1 Cr 6,19).

Sự cư ngụ của Chúa Thánh Thần trong linh hồn những người công chính mang theo sự sung mãn của các ân huệ thiêng liêng. Thánh Tôma viết như sau: “Khi Chúa Thánh Thần phát xuất như là Tình yêu, thì Người phát xuất như là Ân huệ nguyên khởi; vì vậy, theo thánh Augustinô, qua ân huệ là Chúa Thánh Thần, muôn vàn ân huệ khác được ban phát cho các chi thể của Đức Kitô”[20]. Trong số các ân huệ ấy có những lời cảnh báo và mời gọi thầm kín, đôi khi vang lên trong tâm trí và lòng ta nhờ sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, là nguyên uỷ của việc khởi đầu đời sống tốt lành, sự tiến triển và sự cứu rỗi đời đời. Vì những lời ấy xảy đến một cách kín đáo cho nên trong Thánh Kinh đôi khi chúng được ví như làn gió hiu hiu, và Thánh Tôma ví như những chuyển động thầm kín của trái tim: “Trái tim con người có một quyền năng thầm kín, vì thế Chúa Thánh Thần, Đấng vô hình cho Hội thánh sống động và hiệp nhất, được ví như trái tim”[21].

          E. Bảy ân huệ và các hoa trái

12. Hơn nữa, người công chính, tức người đã sống trong ân sủng thần linh và hành động nhờ các nhân đức thích hợp giống như những năng lực, cần đến bảy ân huệ đặc biệt thuộc về Chúa Thánh Thần. Nhờ các ân huệ này, linh hồn được trang bị và vững mạnh hơn để mau mắn và dễ dàng vâng nghe những tiếng gọi và thúc giục của Người. Do đó, các ân huệ này có hiệu quả đưa người công chính lên đỉnh cao thánh thiện, và tuyệt hảo đến nỗi vẫn tồn tại trên thiên đàng, dù ở trạng thái hoàn hảo hơn. Nhờ các ân huệ này, linh hồn được thúc đẩy và khích lệ tìm kiếm và đạt tới các mối phúc thật, tựa như những bông hoa mùa xuân, dấu hiệu và báo hiệu hạnh phúc vĩnh cửu. Sau cùng, có các hoa trái tốt lành, được thánh Phaolô liệt kê (Gl 5,22), mà  Chúa Thánh Thần tạo ra và thông ban cho những người công chính, ngay từ đời này; các hoa trái tràn đầy ngọt ngào và vui mừng, bởi vì đến từ Thánh Thần, “Đấng là tình yêu giữa Cha và Con trong Ba Ngôi, đổ tràn sự ngọt ngào xuống mọi thụ tạo vật”[22].

Thần Khí Thánh, phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con trong ánh sáng hằng cửu của sự thánh thiện như là Tình Yêu và Ân huệ, sau khi đã tỏ mình qua các hình bóng trong Cựu Ước, đã đổ tràn tất cả viên mãn của Người trên Đức Kitô và Thân Thể mầu nhiệm của Người là Hội Thánh; và bằng sự hiện diện và ân sủng của Người, đã gọi những người đang lạc trong đường tội lỗi hãy trở về, biến đổi họ từ thụ tạo phàm trần trở thành thụ tạo thiêng liêng và hầu như thuộc thiên giới. Những chân lý cao cả này, làm sáng tỏ lòng nhân từ vô cùng của Chúa Thánh Thần đối với chúng ta, đòi hỏi chúng ta phải dâng lên Người sự tôn kính cao nhất của tình yêu và lòng sùng kính.

IV. KHUYÊN NHỦ

          A. Cổ võ sự hiểu biết và yêu mến Chúa Thánh Thần

13. Các tín hữu có thể thi hành điều đó cách tốt đẹp nếu hằng ngày họ cố gắng nhận biết Người, yêu mến Người và tha thiết khẩn cầu Người hơn nữa. Vì thế, chúng tôi gửi đến họ lời khuyên chân thành, bộc phát từ một tấm lòng hiền phụ.

Có lẽ ngày nay vẫn không thiếu những người, nếu được hỏi như Thánh Phaolô trước đây, rằng họ có nhận được Chúa Thánh Thần hay chưa, thì sẽ trả lời cách tương tự: “Chúng tôi thậm chí chưa từng nghe nói có Chúa Thánh Thần” (Cv 19,2). Cho dù không đến nỗi dốt đặc về Người, nhưng chắc chắn còn nhiều người chỉ biết cách sơ sài về Người; nhiều khi chỉ nhắc đến Người trên môi miệng, nhưng đức tin vẫn bị bao phủ bởi bóng tối dày đặc. Vì thế, các nhà giảng thuyết và các cha quản xứ phải nhớ rằng bổn phận của họ là dạy bảo dân chúng đạo lý công giáo về Chúa Thánh Thần một cách chuyên cần và trọn vẹn – nhưng phải tránh những tranh luận khó hiểu và tinh vi, cũng như tránh sự khờ dại nguy hiểm của những kẻ liều lĩnh tò mò về các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Điều cần nhấn mạnh và giải thích rõ ràng nhất là vô số ân huệ cao cả mà Đấng Ban Tặng Thiêng Linh này liên lỉ ban phát cho chúng ta, để xua tan hoàn toàn mọi sai lầm và sự u mê về những điều quan trọng, không xứng với những con cái của ánh sáng. Chúng tôi thúc giục điều này không chỉ vì đây là một mầu nhiệm dẫn trực tiếp chúng ta đến sự sống đời đời, và vì vậy phải được tin chắc; mà còn bởi vì khi điều thiện được biết rõ và đầy đủ hơn, thì tình yêu đối với nó càng mãnh liệt hơn. Chúng ta có nghĩa vụ yêu mến Chúa Thánh Thần, bởi vì Người là Thiên Chúa: “Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực” (Đnl 6,5). Người cũng đáng được yêu mến vì là Tình Yêu bản thể, vĩnh cửu và nguyên thủy, và không gì đáng yêu hơn tình yêu. Tình yêu ấy lại càng lớn hơn vì Người đã ban cho ta những ân huệ lớn lao, vừa chứng minh lòng nhân lành của Đấng Ban Tặng, vừa đòi hỏi lòng biết ơn của kẻ nhận. Tình yêu ấy có hai công dụng rõ rệt nhất. Trước hết, nó thúc đẩy ta hằng ngày tìm hiểu sâu sắc hơn về Chúa Thánh Thần; vì, như thánh Tôma nói, “Kẻ nào yêu thì không bằng lòng với sự hiểu biết hời hợt về người mình yêu, nhưng cố gắng tìm hiểu sâu sắc tất cả những gì liên quan đến người ấy, để thâm nhập tận bên trong; cũng vậy đối với Chúa Thánh Thần, Đấng là Tình Yêu Thiên Chúa, Người tìm tòi cả những điều sâu thẳm của Thiên Chúa”[23]. Thứ hai, tình yêu ấy sẽ ban cho ta nhiều ơn phúc của trời hơn nữa; vì sự ơ hờ làm thu hẹp bàn tay của kẻ ban tặng, còn trái tim biết ơn khiến cho bàn tay ấy mở rộng. Tuy nhiên, chúng ta phải cố gắng để tình yêu ấy không chỉ dừng lại ở những suy tư khô khan hay hình thức đạo đức bên ngoài, nhưng hướng tới hành động, và đặc biệt là tránh xa tội lỗi, vốn là sự xúc phạm đặc biệt đối với Chúa Thánh Thần. Vì tất cả những gì ta có đều là nhờ lòng nhân lanh của Thiên Chúa; và lòng nhân lành này được gán đặc biệt cho Chúa Thánh Thần, cho nên kẻ phạm tội thì xúc phạm Đấng Ban Phúc, lạm dụng các ơn Người ban, và như vậy tăng thêm lỗi phạm bởi vì chống lại lòng nhân từ của Người.

          B. Đừng làm phiền lòng Chúa Thánh Thần

14. Hơn nữa, vì Người là Thần Khí Sự Thật, nên ai phạm lỗi do yếu đuối hay dốt nát thì đôi khi có thể được chữa mình trước mặt Thiên Chúa Toàn Năng; nhưng ai cố tình chống lại sự thật bằng ác ý và quay lưng lại với sự thật, thì phạm tội rất nặng đối với Chúa Thánh Thần. Ngày nay tội này trở nên phổ biến đến mức thời kỳ đen tối đã đến như Thánh Phaolô đã tiên báo, khi con người trở thành mù quáng bởi phán xét công minh của Thiên Chúa, họ lại coi những sự dối trá là chân lý, và tin vào “ông trùm thế gian này”, kẻ nói dối và là cha của dối trá, như là một thầy dạy sự thật: “Thiên Chúa sẽ sai cho họ sự mê hoặc làm cho họ tin vào sự dối trá” (2 Tx 2,10). “Vào những ngày cuối cùng, một số người sẽ rời bỏ đức tin, nghe theo thần khí dối trá và các giáo huấn của ma quỷ” (1 Tm 4,1). Nhưng vì Chúa Thánh Thần, như chúng tôi đã nói, ngự trong ta như trong đền thờ của Người, chúng tôi phải nhắc lại lời cảnh cáo của thánh Tông đồ: “Anh em đừng làm buồn lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, Đấng đã ghi dấu trên anh em” (Ep 4,30). Để được như vậy, chỉ tránh xa tội lỗi mà thôi thì chưa đủ; mỗi người Kitô hữu phải tỏa sáng nhờ sự huy hoàng của mọi nhân đức, đặc biệt là đức thanh khiết và thánh thiện, để làm vui lòng vị khách cao quý và nhân lành đến vậy; vì những điều ấy xứng hợp với đền thờ. Do đó, Tông Đồ nói: “Anh em không biết thân thể mình là đền thờ Thiên Chúa, và Thần Khí Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Nếu ai làm ô uế đền thờ Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ tiêu diệt người ấy. Vì đền thờ Thiên Chúa là thánh thiện, và anh em chính là đền thờ ấy” (1 Cr 3,16-17): một lời cảnh báo nghiêm khắc nhưng rất chính xác.

          C. Khẩn cầu Chúa Thánh Thần

15. Cuối cùng, chúng ta hãy cầu nguyện và nài xin Chúa Thánh Thần, vì tất cả chúng ta đều cần sự bảo vệ và trợ giúp của Người. Chúng ta nghèo hèn, yếu đuối, cơ cực vì thử thách, dễ sa ngã, thì ta càng phải chạy đến Người, nguồn sáng, sức mạnh, an ủi và thánh thiện không bao giờ ngừng tuôn trào. Và trên hết, cần tìm nơi Người ơn tha thứ tội lỗi: “Đặc tính riêng của Chúa Thánh Thần – Người là Quà Tặng của Chúa Cha và Chúa Con. Ơn tha thứ mọi tội lỗi được ban qua Chúa Thánh Thần như qua Quà Tặng Thiên Chúa”[24]. Về Thần Khí này, lời phụng vụ nói rất rõ ràng: “Người là ơn tha thứ mọi tội lỗi”[25].

Chúng ta hãy học nơi Hội thánh về cách thức khẩn cầu Người cách xứng hợp. Hội Thánh van xin Người với thái độ khiêm nhường, gọi Người bằng những danh hiệu dịu dàng nhất: “Lạy Cha của những người nghèo khó! Lạy Đấng ban các quà tặng! Lạy Ánh Sáng của mọi tâm hồn! Đấng An Ủi tuyệt hảo, khách ngọt ngào của linh hồn, niềm nghỉ ngơi của chúng con!”[26]. Hội Thánh tha thiết xin Người hãy rửa sạch, chữa lành, tưới mát tâm trí và tâm hồn chúng con, và ban cho chúng con, những người tín thác vào Người, “phần thưởng của nhân đức, sự kết liễu cuộc đời này trong hạnh phúc, niềm vui muôn đời”. Không nghi ngờ gì rằng Người sẽ lắng nghe lời cầu nguyện đó, vì chúng ta đọc được lời Người linh hứng: “Chính Thần Khí cầu thay cho chúng ta bằng những tiếng rên rỉ không thể nói ra được” (Rm 8,26). Tóm lại, chúng ta phải liên tục và can đảm xin Người soi sáng cho chúng ta ngày càng sáng tỏ hơn bởi ánh sáng của Người, và làm bùng cháy trong ta tình yêu của Người; nhờ đó, được thúc đẩy bởi đức tin và lòng yêu mến, ta tiến bước hăng say về phần thưởng đời đời, vì Người “là bảo chứng cho sự thừa kế của chúng ta” (Ep 1,14).

           D. Tuần cửu nhật trước lễ Hiện Xuống

16. Anh em đáng kính, những điều ấy là những giáo huấn và lời khuyên mà chúng tôi thấy cần nói ra để kích thích lòng sùng kính đối với Chúa Thánh Thần. Chúng tôi không nghi ngờ rằng, nhờ sự nhiệt thành và tận tâm của anh em, chúng sẽ sinh hoa kết quả phong phú giữa các dân Kitô hữu. Chúng tôi sẽ không ngừng nỗ lực vì mục đích quan trọng đó; và cũng là ý định của chúng tôi, bằng mọi cách có thể thích hợp, tiếp tục vun trồng và mở rộng công việc sùng kính kỳ diệu này. Trong khi ấy, như đã đề cập trong Thư Provida Matris cách đây hai năm, chúng tôi đã khuyên các tín hữu đặc biệt cầu nguyện trong Lễ Ngũ Tuần cho sự Hiệp Nhất của các Giáo Hội Kitô, thì giờ đây chúng tôi muốn đưa ra một số chỉ thị về cùng đề tài này. Chúng tôi ra lệnh và truyền rằng trong toàn thể Hội Thánh Công Giáo, năm nay và mỗi năm về sau, sẽ tổ chức tuần chín ngày trước lễ Ngũ Tuần tại tất cả các nhà thờ giáo xứ, và nếu các Đấng Bản Quyền địa phương thấy thích hợp, tại các nhà thờ và nhà nguyện khác.

Chúng tôi ban ân xá bảy năm và bảy mùa  mỗi ngày cho những ai tham dự tuần cửu nhật này và sốt sắng cầu nguyện cho ý nguyện của chúng tôi; chúng tôi ban ơn đại xá vào bất cứ ngày nào trong tuần Cửu Nhật, hoặc vào chính lễ Ngũ tuần, hoặc bất cứ ngày nào trong tuần Bát Nhật, với điều kiện là lãnh nhận các Bí Tích Hòa Giải và Thánh Thể, và sốt sắng cầu nguyện cho ý nguyện của chúng tôi.

Chúng Tôi cũng muốn rằng những ai, vì ngăn trở chính đáng, không thể tham dự các việc thờ phượng chung, hoặc ở nơi mà theo xét đoán của Đấng Bản Quyền không thể cử hành các việc sùng kính một cách thuận tiện trong nhà thờ, cũng được hưởng các ơn ích ấy, với điều kiện làm tuấn Cửu Nhật một cách riêng tư và tuân giữ các điều kiện còn lại. Hơn nữa, Chúng Tôi vui lòng ban phát vĩnh viễn, từ Kho Tàng Hội Thánh, cho bất cứ ai hằng ngày trong tuần Bát Nhật từ lễ Ngũ Tuần đến Chúa Nhật Ba Ngôi (bao gồm cả ngày ấy), công khai hay riêng tư dâng lời cầu nguyện tôn kính Chúa Thánh Thần và tuân giữ các điều kiện trên, thì được nhận lại lần thứ hai tất cả các ơn xá kể trên. Tất cả các ơn xá này cũng được phép áp dụng cho các linh hồn trong luyện ngục.

KẾT LUẬN.  Chúa Thánh Thần và Đức Trinh nữ Maria

17. Giờ đây, lòng trí chúng tôi trở về với những hy vọng mà chúng tôi đã bắt đầu, chúng tôi hết lòng cầu nguyện, và sẽ tiếp tục cầu xin Chúa Thánh Thần thực hiện những hy vọng ấy. Vậy, xin các Anh em đáng kính hãy hiệp ý cầu nguyện với chúng tôi, và theo lời khuyên của các Anh em, xin tất cả các tín hữu cũng dâng lời cầu nguyện, nhờ sự chuyển cầu quyền năng và luôn được chấp nhận của Đức Mẹ Maria. Anh em đều biết mối quan hệ mật thiết và kỳ diệu giữa Mẹ và Chúa Thánh Thần, đến mức Mẹ được gọi chính danh là Tân Nương của Người. Sự chuyển cầu của Đức Mẹ rất có hiệu lực trong mầu nhiệm Nhập Thể và trong sự hiện xuống của Chúa Thánh Thần trên các Tông Đồ. Nguyện xin Mẹ tiếp tục củng cố lời cầu nguyện của chúng ta bằng sự chuyển cầu của Mẹ, ngõ hầu giữa mọi khó khăn và thử thách của các dân tộc, những kỳ công của Chúa Thánh Thần, báo trước trong lời của Vua Đavít, được tái diễn: “Xin sai Thần Khí của Ngài đến, và muôn vật sẽ được tạo dựng, và mặt đất sẽ được đổi mới” (Tv 103,30).

Ban hành tại Rôma, đền Thánh Phêrô, ngày 9 tháng 5 năm 1897, năm thứ 20 triều đại giáo hoàng của chúng tôi.

LÊÔ XIII



[1] T. Lêô Cả, Bài giảng II, ngày kỷ niệm nhậm chức.

[2] T. Basiliô, De Spiritu Sancto, c.16, n.39.

[3] T. Tôma, Summa Theol. I, q.31, a.2;  T. Augustinô, De Trinitate, I, 3.

[4] T. Augustinô, De Trinitate, I, 6 và 10.

[5] T. Augustinô, De Trinitate, I, 4-5.

[6] T. Augustinô, ibidem.

[7] .T. Tôma, Summa Theol., I, q.39,a. 7

[8]  T. Augustinô, De Trinitate, IV, 20

[9]  Enchiridion, c.30; T. Tôma, Summa Theol., III, q.32, a.1.

[10] T. Basiliô, De Spiritu Sancto, c. 16.

[11]  T. Augustinô,De Trinitate, XV,  26

[12] T. Cyrillô Giêrusalem, Catech. 17

[13]  T. Gioan Kim Khẩu, In Mt., hom.50; 2 Cr 3,3.

[14] T. Augustinô, Sermo 187 de tempore.

[15] T. Lêô Cả, Homilia 3 de Pentec.

[16] T. Augustinô, De Trinitate, I, 4, 20.

[17] T. Cyrillô  Alexandria, Thesaurus, Lib., 5.

[18] T. Tôma, Summa Theol., III, q.32, a.1.

[19] T.Tôma, Summa Theol., I, q.8, a.3.

[20]  T. Tôma, Summa Theol., I, q.38, a.2; T. Augustinô, De Trinitate, XV, 19

[21]  T. Tôma, Summa Theol., III, q.38, a.1.

[22] T. Augustinô, De Trinitate, I, 6, 9

[23] 1 Cr 2,10; T. Tôma, Summa Theol., I-II, q. 28, a.2.

[24] T. Tôma, Summa Theol., III, q. 3, a.8, ad 3m.

[25] Missale Romanum, Fer. 3 post Pentecosten.

[26]  Ca-tiếp-liên Veni Sancte Spiritus

Chia sẻ