Skip to content
Banner 10.2024
Ngôn ngữ

Tông huấn Hãy vui lên trong Chúa (Gaudete in Domino) về Niềm vui Kitô giáo (kỳ IV)

Văn phòng Học Viện
2025-05-31 08:43 UTC+7 302
“Niềm vui” là một tư tưởng nòng cốt của Kitô giáo, bởi vì gắn liền với mầu nhiệm Nhập thể và Phục sinh. ĐTC Phalô VI nhấn mạnh đến sự cần thiết của niềm vui Kitô giáo, và thúc giục các tín hữu hãy vun trồng niềm vui như là một hồng ân của Thánh Linh giữa một thế giới đầy dẫy đau khổ và tranh chấp. Niềm vui Kitô giáo bắt nguồn từ sự kết hợp sâu xa với Thiên Chúa, và được diễn tả qua tình liên đới, canh tân bản thân và hòa giải.

TÔNG HUẤN
GAUDETE IN DOMINO
(Hãy vui lên trong Chúa)

CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHAOLÔ VI
VỀ NIỀM VUI KITÔ GIÁO

- Kỳ IV -

VI. NIỀM VUI VÀ HY VỌNG NƠI TÂM HỒN NGƯỜI TRẺ

53. Dù vẫn duy trì lòng nhiệt thành của sứ điệp này gửi đến toàn thể Dân Thiên Chúa, chúng tôi muốn dành đôi lời ngỏ tới cách đặc biệt với thế giới người trẻ, với một niềm hy vọng đặc biệt.

54. Thật vậy, nếu Hội Thánh, được tái sinh nhờ Thánh Linh, theo một nghĩa nào đó là sức trẻ đích thực của thế giới, miễn là Hội Thánh trung tín với chính bản thân mình và với sứ mạng của mình, thì làm sao Hội Thánh lại không tự nhiên và ưu tiên nhận ra hình ảnh của mình nơi những ai cảm thấy mình là người mang sự sống và hy vọng, và dấn thân nhằm đảm bảo rằng tương lai cho lịch sử hiện tại? Và ngược lại, làm sao những người mà trong mọi thời đại của lịch sử này sống mạnh mẽ nhất sức sống nội tâm, khao khát tương lai, khao khát canh tân đích thực, lại không thầm kín đồng điệu với một Hội Thánh được Thần Khí Đức Kitô làm cho sống động? Làm sao họ lại không trông mong nơi Hội Thánh truyền đạt bí quyết của tuổi trẻ trường tồn, và nhờ đó, tìm thấy niềm vui của chính tuổi trẻ mình?

55. Chúng tôi tin rằng thực sự có một sự tương hợp như thế, dù không phải lúc nào cũng thấy rõ, nhưng chắc chắn sâu xa, bất chấp nhiều mâu thuẫn ngẫu nhiên. Chính vì thế, trong Tông huấn về Niềm vui Kitô giáo này, tâm trí và trái tim chúng tôi thôi thúc chúng tôi quay cách dứt khoát về phía người trẻ hôm nay. Chúng tôi làm điều này nhân danh Đức Kitô và Hội Thánh của Người, Hội Thánh mà, dù mang nhiều yếu đuối nhân loại, vẫn được Người mong muốn là một Hội Thánh “rạng ngời, không vết nhơ, không tì ố hay bất cứ khuyết điểm nào, nhưng là thánh thiện và tinh tuyền.”  (62)

56.  Khi làm như thế, chúng tôi không chiều theo một thứ tôn sùng theo cảm tính. Nếu chỉ xét theo tuổi tác, thì tuổi trẻ là điều chóng qua. Một sự chú ý quá mức đến tuổi trẻ sẽ nhanh chóng trở thành lưu luyến hoặc nực cười. Nhưng điều đó không đúng khi nói đến ý nghĩa thiêng liêng của giây phút ân sủng này: tuổi trẻ được sống đúng cách. Điều thu hút chúng tôi chính là sự tương hợp sâu xa giữa một con người đang bừng bừng sức sống, vốn tự nhiên cởi mở với lời mời gọi và đòi hỏi của ơn gọi cao cả làm người, và động lực của Thánh Linh, Đấng không ngừng ban cho Hội Thánh tuổi trẻ của chính Người, sự trung tín đích thực của Hội Thánh với chính mình, và sự sáng tạo sống động nơi cốt lõi của lòng trung tín ấy. Đó là một sự tương hợp tuy ngắn ngủi và bị đe dọa, nhưng vẫn đầy ý nghĩa và giàu hứa hẹn quảng đại. Từ cuộc gặp gỡ giữa con người đang nắm giữ tuổi trẻ trong một số năm quyết định, và Hội Thánh trong sự trẻ trung thiêng liêng trường tồn của mình, chắc chắn nảy sinh – từ cả hai phía – một niềm vui cao quý và một hứa hẹn sinh hoa kết quả.

57. Hội Thánh, như một Dân Thiên Chúa lữ hành hướng về Vương quốc tương lai, cần phải biết tự duy trì sự sống và do đó tự canh tân qua các thế hệ kế tiếp. Với Hội Thánh, đó là điều kiện của sự sinh hoa kết quả, và thậm chí, của sự sống chính mình. Vì thế, ở mỗi thời điểm trong lịch sử, thế hệ đang lên cần phải đảm nhận, bằng cách nào đó, niềm hy vọng của các thế hệ đi trước, tức là niềm hy vọng của chính Hội Thánh, đó là truyền thông không ngơi nghỉ hồng ân của Thiên Chúa, là Chân lý và là Sự sống. Chính vì vậy, ở mọi thế hệ, người Kitô hữu trẻ được kêu gọi chính đáng để xác nhận cách ý thức và trọn vẹn giao ước đã được thiết lập với họ trong bí tích Thánh Tẩy, và được củng cố trong bí tích Thêm Sức.

58. Về điểm này, thời đại của chúng ta – một thời đại đổi thay sâu sắc – không thiếu những khó khăn lớn lao cho Hội Thánh. Chúng tôi, những người cùng với toàn thể Giám mục đoàn “mang nỗi ưu tư cho mọi Hội Thánh” (63), và quan tâm đến tương lai gần của họ, chúng tôi rất ý thức điều đó. Nhưng đồng thời, nhờ được nâng đỡ bởi đức tin và “niềm hy vọng không giả dối” (64), chúng tôi xác tín rằng ân sủng sẽ không thiếu nơi Dân Thiên Chúa, và chúng tôi hy vọng chính Dân Chúa cũng sẽ không từ chối ân sủng ấy, cũng không chối bỏ – như một số người hôm nay đang bị cám dỗ nặng nề – gia sản chân lý và sự thánh thiện đã được truyền lại đến thời điểm quyết định này của lịch sử thế giới. Và chính tại điểm này – chúng tôi nghĩ rằng mình có đầy đủ lý do để tin tưởng vào giới trẻ Kitô giáo: giới trẻ sẽ không làm Hội Thánh thất vọng, nếu trong lòng Hội Thánh có đủ những người lớn tuổi biết hiểu, biết yêu, biết hướng dẫn giới trẻ, và mở ra cho họ một tương lai, bằng cách trung tín tuyệt đối trong việc trao lại Chân lý trường tồn. Khi ấy, những thợ gặt mới, kiên quyết và nhiệt thành, sẽ bước vào sứ mạng tông đồ và thiêng liêng, trên cánh đồng đã sẵn sàng cho mùa gặt. Khi ấy, “kẻ gieo và kẻ gặt sẽ cùng nhau hoan hỉ”  trong niềm vui của Nước Trời. (65)

59. Thật vậy, chúng tôi nghĩ rằng cuộc khủng hoảng hiện nay trên thế giới, được biểu lộ qua sự hỗn loạn lớn nơi nhiều người trẻ, phần nào phản ánh một bộ mặt già nua và lỗi thời của một nền văn minh mang tính thương mại, khoái lạc và duy vật, mà vẫn cố tự giới thiệu như cánh cửa bước vào tương lai. Phản ứng bản năng của nhiều người trẻ chống lại ảo tưởng ấy vẫn mang một tầm quan trọng nào đó. Thế hệ này đang chờ đợi một điều khác. Sau khi đột ngột bị tước mất các truyền thống bảo bọc, rồi lại cay đắng vì bị lừa dối bởi sự hư danh và trống rỗng thiêng liêng của các thứ “mới mẻ” giả tạo, bởi các ý thức hệ vô thần và những dạng thần bí độc hại, lẽ nào thế hệ này sẽ không đến lúc khám phá – hay tái khám phá – sự mới mẻ chắc chắn và bất biến của mầu nhiệm Thiên Chúa được tỏ lộ trong Đức Giêsu Kitô? Nào Người không phải, như lời rực rỡ của thánh Irênê, đã “mang đến tất cả sự mới mẻ khi mang chính bản thân mình” sao? (66)

60. Vì lý do đó, chúng tôi rất vui được gửi cách đặc biệt đến anh chị em, các bạn trẻ Kitô hữu hôm nay – là lời hứa của Hội Thánh tương lai – lời mời gọi bước vào cuộc cử hành niềm vui thiêng liêng này. Chúng tôi tha thiết mời gọi anh chị em lắng nghe những tiếng gọi nội tâm đang vang vọng trong anh chị em. Chúng tôi mời gọi anh chị em ngẩng cao mắt, nâng cao tâm hồn và sức lực tươi trẻ của mình hướng lên cao, để đón nhận nỗ lực của khát vọng linh hồn. Và chúng tôi muốn gửi đến anh chị em một lời bảo đảm: mặc cho định kiến phổ biến hiện nay, vốn lan rộng khắp nơi, rằng tinh thần con người không thể nhận biết được Chân lý vĩnh cửu và mang lại sự sống, thì niềm vui vì Chân lý thần linh được nhận ra trong Hội Thánh – gaudium de Veritate – vẫn là niềm vui sâu xa và giải thoát. (67) Đó chính là niềm vui được ban tặng cho anh chị em. Niềm vui ấy tự hiến cho những ai yêu mến nó đủ để kiên trì kiếm tìm. Bằng cách sẵn lòng đón nhận và loan truyền niềm vui ấy, anh chị em sẽ chu toàn chính mình trong Đức Kitô, đồng thời bảo đảm cho giai đoạn kế tiếp của lịch sử Dân Thiên Chúa.

VII. NIỀM VUI CỦA NGƯỜI HÀNH HƯƠNG TRONG NĂM THÁNH

61.Năm Thánh với hành trình hành hương của nó là một phần tự nhiên trong cuộc lữ hành của toàn thể Dân Thiên Chúa. Ân sủng của Năm Toàn Xá thực sự đạt được bằng cách lên đường và bước đi về phía Thiên Chúa, trong đức tin, đức cậy và đức mến. Khi thay đổi phương thức và thời điểm cử hành Năm Toàn Xá, chúng tôi muốn tạo điều kiện dễ dàng hơn cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, yếu tố thiết yếu vẫn là quyết định nội tâm, để đáp lại lời mời gọi của Thánh Linh, cách cá vị, như một môn đệ của Đức Giêsu, như một người con của Hội Thánh Công giáo và Tông truyền, và theo đúng ý hướng của Hội Thánh. Mọi điều khác thuộc về trật tự của các dấu chỉ và phương thế. Vâng, cuộc hành hương được mong ước chính là, đối với toàn thể Dân Thiên Chúa cũng như đối với từng cá nhân trong Dân ấy, một chuyển động, một lễ Vượt Qua, tức là một hành trình nội tâm đến nơi sâu thẳm, nơi mà Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần đón nhận người hành hương vào trong chính sự thân mật và hiệp thông thần linh của các Ngài: “Ai yêu mến Thầy… Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và chúng Ta sẽ đến và ở lại với người ấy.”  (68) Để đạt đến sự hiện diện ấy, luôn đòi hỏi phải đào sâu sự hiểu biết đích thực về chính mình, như là thụ tạo và như là con cái Thiên Chúa.

62. Lẽ nào cuộc canh tân nội tâm như thế không chính là điều mà Công đồng gần đây nhất đã muốn cách nền tảng? (69) Quả thật, đây là một công trình của Thánh Linh, là một hồng ân của lễ Hiện Xuống. Người ta cũng phải nhận ra nơi vị tiền nhiệm của chúng tôi là Đức Gioan XXIII một trực giác ngôn sứ, khi ngài hình dung về một cuộc Hiện Xuống mới như là hoa trái của Công đồng. (70) Về phần chúng tôi, chúng tôi cũng muốn đặt mình vào cùng một viễn tượng và tâm thế chờ mong như thế. Không phải vì lễ Hiện Xuống đã từng bị gián đoạn trong suốt lịch sử Hội Thánh, nhưng bởi vì nhu cầu và nguy cơ của thời đại này quá lớn, chân trời của nhân loại được mở ra cho sự cộng tồn toàn cầu nhưng lại bất lực trong việc thực hiện nó, đến nỗi không có ơn cứu độ nào khác ngoài một cuộc tuôn trào mới của ân ban Thiên Chúa. Vậy thì, nguyện xin Thần Khí Sáng Tạo hãy đến, để canh tân bộ mặt trái đất!

63.Trong Năm Thánh này, chúng tôi đã mời gọi anh chị em thực hiện – dù cách thể lý, hay bằng tinh thần và ý hướng – một cuộc hành hương về Rôma, tức là đến trung tâm của Hội Thánh Công giáo. Nhưng rõ ràng Rôma không phải là đích điểm tối hậu của cuộc hành hương trong thời gian. Không có thành thánh nào nơi trần gian này là mục tiêu chung cuộc. Mục tiêu ấy vượt khỏi thế giới này, ẩn sâu trong mầu nhiệm của Thiên Chúa mà chúng ta vẫn chưa thấy tỏ tường. Vì chúng ta bước đi trong đức tin chứ không phải bằng thị kiến rõ ràng, và điều chúng ta sẽ là thì vẫn chưa được mạc khải. Giêrusalem Mới, mà chúng ta đã là công dân và là con cái, (71) từ trời cao xuống, từ nơi Thiên Chúa. Về thành duy nhất còn tồn tại ấy, chúng ta chưa được chiêm ngưỡng vinh quang, ngoài việc ngắm nhìn như trong gương một cách lờ mờ, nhờ nắm giữ chắc chắn lời tiên tri. Nhưng chúng ta đã là công dân của thành ấy, hoặc được mời gọi trở nên như vậy; mọi cuộc hành hương thiêng liêng đều nhận được ý nghĩa nội tâm từ đích điểm tối hậu này.

64. Điều đó cũng đã từng đúng đối với Giêrusalem được các vịnh gia ca ngợi. Chính Đức Giêsu và Mẹ Maria của Người cũng đã hát lên nơi trần thế những bài ca Xion khi tiến lên Giêrusalem: “tuyệt đỉnh của vẻ đẹp”, “ niềm vui của toàn thế giới.”  (72) Nhưng từ nay, Giêrusalem trên trời nhận được sức hấp dẫn từ chính Đức Kitô, và chính về Người mà chúng ta thực hiện cuộc hành trình nội tâm của mình.

65. Điều này cũng đúng với Rôma, nơi các thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô đã đổ máu mình như là những chứng nhân oai hùng. Ơn gọi của Rôma có nguồn gốc tông truyền, và thừa tác vụ mà chúng tôi được trao ở đây là một sứ vụ phục vụ vì lợi ích của toàn thể Hội Thánh và nhân loại. Nhưng đó là một sứ vụ không thể thay thế, bởi vì Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã muốn đặt Rôma của thánh Phêrô và thánh Phaolô, như thể, trên con đường dẫn đến Thành vĩnh cửu, bởi chính Sự Khôn Ngoan ấy đã chọn trao cho Phêrô – người quy tụ toàn thể Giám mục đoàn – chìa khóa Nước Trời.

66. Điều còn lại nơi đây, không bởi ý muốn của con người, nhưng bởi lòng nhân hậu và tự do của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chính là soliditas Petri – sự vững bền của Phêrô – mà thánh Lêô Cả, vị tiền nhiệm của chúng tôi, đã ca tụng bằng những lời không thể quên được: “Thánh Phêrô không ngừng chủ tọa ngai tòa của mình và duy trì sự hiệp thông bất tận với Vị Thượng Tế Tối Cao. Sự vững chắc mà ngài đã lãnh nhận từ Đá Tảng là Đức Kitô, thì chính ngài, khi đã trở thành Đá Tảng, cũng truyền lại một cách bình đẳng cho các đấng kế vị ngài; và nơi nào xuất hiện một sự vững bền, thì nơi đó chắc chắn là sức mạnh của vị Mục Tử... Vậy thì, vẫn sống động và mạnh mẽ nơi vị Thủ lãnh các Tông đồ, tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người – tình yêu chưa từng sờn lòng vì tù ngục, xiềng xích, đám đông hay đe dọa của vua chúa; và cũng như thế, đức tin bất khuất nơi ngài chưa hề dao động trong chiến đấu, cũng chẳng nguội lạnh khi chiến thắng.”  (73)

67. Điều chúng tôi luôn ước mong – và cách riêng trong dịp cử hành Năm Thánh này – là anh em có thể cảm nghiệm cùng với chúng tôi, tại Rôma cũng như nơi mọi Giáo hội ý thức trách nhiệm hiệp thông với truyền thống chân chính được gìn giữ tại Rôma, (74) điều mà Thánh vịnh ca tụng: “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau!” (75)

68. Một niềm vui chung, đích thực siêu nhiên, là hồng ân của Thánh Thần hiệp nhất và yêu thương, mà niềm vui ấy chỉ có thể thành sự khi đức tin được đón nhận trọn vẹn theo quy chuẩn Tông đồ. Bởi vì khi ấy, mặc dù đức tin “được loan báo khắp hoàn cầu, thì Hội Thánh Công giáo vẫn gìn giữ một cách cẩn trọng, như thể đức tin ấy cư ngụ trong một ngôi nhà duy nhất, và tuyên xưng đồng thuận, như thể chỉ có một linh hồn và một trái tim; và Hội Thánh rao giảng, giảng dạy và truyền đạt đức tin ấy hoàn toàn nhất trí, như thể chỉ có một miệng lưỡi duy nhất mà thôi.”  (76)

69. “Ngôi nhà duy nhất” ấy, “trái tim và linh hồn” duy nhất ấy, “miệng lưỡi duy nhất” ấy – tất cả đều cần thiết cho Hội Thánh và cho toàn thể nhân loại, để nơi trần thế này có thể không ngừng vang lên, trong sự hòa hợp với Giêrusalem trên trời, bài ca mới, thánh thi của niềm vui thần linh. Và chính vì lý do ấy, chúng tôi phải khiêm tốn, kiên nhẫn và bền bỉ làm chứng – dù giữa bao điều không thấu hiểu từ nhiều phía – cho sứ mạng mà Chúa đã trao: đó là hướng dẫn đoàn chiên và củng cố anh em mình. (77) Nhưng biết bao lần, chính ý nghĩ về tất cả anh em đã an ủi chúng tôi cách sâu xa, để chúng tôi có thể chu toàn sứ vụ tông đồ của mình vì lợi ích của Hội Thánh hoàn vũ và vinh quang của Chúa Cha!

KẾT LUẬN

70. Giữa lòng Năm Thánh này, chúng tôi đã xem như một hành động trung tín đối với sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, khi mời gọi các Kitô hữu trở về với nguồn mạch của niềm vui.

71. Anh em rất thân mến và các con yêu dấu, lẽ nào lại không là điều tự nhiên khi niềm vui cư ngụ trong chúng ta, khi lòng trí chúng ta chiêm ngắm hoặc tái khám phá – trong đức tin – những lý do căn bản và đơn sơ của niềm vui? Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người; và qua Thánh Linh, sự hiện diện của Thiên Chúa không ngừng ôm ấp chúng ta bằng sự dịu dàng của Người và tràn đầy trong chúng ta sự sống của Người; và chúng ta đang bước đi trong hành trình hướng tới sự biến hình vinh phúc của đời sống mình trong con đường phục sinh của Đức Giêsu. Vâng, thật là điều kỳ lạ nếu Tin Mừng này – vốn gợi lên lời Alleluia của Hội Thánh – lại không làm phát sinh nơi chúng ta ánh nhìn của những người đã được cứu độ.

72. Niềm vui được làm Kitô hữu, được hiệp thông với Hội Thánh, được “ở trong Đức Kitô” và trong tình trạng ân sủng với Thiên Chúa, thực sự có thể làm trọn đầy cõi lòng con người. Lẽ nào không chính niềm hân hoan sâu xa ấy đã khiến Blaise Pascal dâng lên cung giọng xúc động: “Vui mừng, vui mừng, vui mừng, nước mắt của hoan lạc” ? Và gần gũi với chúng ta, có biết bao văn sĩ đã biết diễn tả cách mới mẻ – chúng tôi nghĩ đến Georges Bernanos chẳng hạn – niềm vui Tin Mừng của người khiêm nhường, niềm vui đang rạng chiếu khắp nơi trên thế giới và đang cất tiếng về sự im lặng của Thiên Chúa!

73. Niềm vui luôn nảy sinh từ một cái nhìn đúng đắn về con người và về Thiên Chúa. “Khi mắt ngươi trong sáng, thì toàn thân ngươi cũng được sáng láng.”  (78) Ở đây, chúng ta chạm đến chiều kích nguyên thủy và bất khả xâm phạm nơi con người: đó là ơn gọi hạnh phúc của nó, một ơn gọi luôn đi qua những kênh dẫn của tri thức và tình yêu, của chiêm niệm và hành động. Ước gì anh em đạt được sự thiện hảo nơi linh hồn người anh em mình, và đạt được sự hiện diện của Thiên Chúa vốn thật gần gũi với cõi lòng con người!

74. Vì thế, những thành viên đang xao động trong các nhóm khác nhau, hãy biết từ chối những thái quá của tinh thần phê phán có hệ thống và mang tính phá hủy! Không rời xa cái nhìn hiện thực, các cộng đoàn Kitô hữu hãy trở thành những trung tâm của lạc quan, nơi mà mọi thành viên kiên quyết cố gắng nhận ra khía cạnh tích cực nơi những con người và các biến cố. “Đức mến không vui mừng trước điều gian ác, nhưng vui trong điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả.” (79)

75. Việc đạt được cái nhìn như thế không chỉ là chuyện tâm lý mà thôi. Đó cũng là hoa trái của Thánh Linh. Chính Thánh  Linh – Đấng cư ngụ trọn vẹn trong con người của Đức Giêsu – đã làm cho Người, trong đời sống dương thế, trở nên nhạy cảm với những niềm vui của đời sống thường nhật, đầy tinh tế và thuyết phục trong việc đưa tội nhân trở lại con đường của tuổi trẻ nội tâm! Chính Thánh Linh đã làm cho Đức Trinh Nữ Diễm Phúc và từng vị thánh được sống động. Chính Thánh Linh ấy hôm nay vẫn ban cho biết bao Kitô hữu niềm vui sống mỗi ngày theo ơn gọi riêng, trong bình an và hy vọng, vượt qua mọi thất bại và khổ đau.

76. Chính Thánh Thần Hiện Xuống hôm nay đang dẫn đưa rất nhiều người theo Đức Kitô bước đi trên con đường cầu nguyện, trong niềm vui của lời ca ngợi hiếu thảo, hướng đến việc phục vụ khiêm tốn và hân hoan những người bị bỏ rơi, những người ở bên lề xã hội. Bởi lẽ, niềm vui không thể tách rời khỏi sự chia sẻ. Nơi Thiên Chúa, mọi sự là niềm vui  bởi vì mọi sự đều là ân ban.

77. Cái nhìn tích cực này về con người và về vạn vật – vừa là hoa trái của tinh thần con người được soi sáng, vừa là hoa trái của Thánh Linh – nơi các Kitô hữu, có một địa điểm ưu tuyển để được bồi đắp: việc cử hành Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu. Trong cuộc thương khó, cái chết và sự phục sinh của Người, Đức Kitô tóm kết lịch sử của từng người và của toàn thể nhân loại, với gánh nặng khổ đau và tội lỗi, với năng lực hướng về hoàn bị và thánh thiện. Chính vì thế, lời cuối cùng trong Tông huấn này là một lời mời khẩn thiết gửi đến tất cả các vị hướng dẫn và linh hoạt viên của các cộng đoàn Kitô hữu: đừng ngại lặp lại không ngừng tầm quan trọng của việc các tín hữu đã lãnh Bí tích Rửa Tội cần trung thành với việc cử hành Thánh Thể Chúa Nhật, trong niềm vui. Làm sao có thể thờ ơ trước cuộc gặp gỡ này, bữa tiệc này, mà chính Đức Kitô đã chuẩn bị cho chúng ta trong tình yêu của Người? Ước chi việc tham dự cử hành ấy luôn vừa xứng đáng vừa đầy niềm hoan lạc! Chính Đức Kitô chịu đóng đinh và đã phục sinh đang hiện diện giữa các môn đệ, quy tụ họ vào trong việc canh tân sự phục sinh của Người. Đó là đỉnh cao nơi trần thế của giao ước yêu thương giữa Thiên Chúa và Dân Người: là dấu chỉ và suối nguồn của niềm vui Kitô giáo, là sự chuẩn bị cho bữa tiệc cánh chung muôn đời.

Nguyện xin Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần lôi cuốn anh em đến với bàn tiệc ấy! Và chúng tôi hết lòng chúc lành cho anh chị em.

Ban hành tại Rôma, cạnh đền thờ Thánh Phêrô, ngày 9 tháng 5 năm 1975, năm thứ mười hai triều đại Giáo hoàng của chúng tôi.

Phaolô VI

*****************


62. Ep 5,27.

63. 2 Cr 11,28.

64. X. Rm 5,5.

65. X. Ga 4,35-36.

66. Thánh Irênê, Chống lạc giáo, IV, 34, 1: PG 7, 1083.

67. Thánh Augustinô, Tự thú, quyển X, 23: CSEL, 33, tr. 252.

68. Ga 14,23.

69. X. Phaolô VI, Diễn văn khai mạc khóa họp thứ hai của Công đồng, phần 1, ngày 29 tháng 9 năm 1963: A.A.S. 55 (1963), tr. 845tt.; Thông điệp Ecclesiam Suam, A.A.S. 56 (1964), tr. 612, 614-618.

70. Gioan XXIII, Diễn văn bế mạc khóa họp thứ nhất, phần 3, ngày 8 tháng 12 năm 1962: A.A.S. 55 (1963), tr. 38tt.

71. X. Gl 4,26.

72. Tv 50,2; 48,3.

73. Thánh Lêô Cả, Bài giảng XCVI, dịp kỷ niệm nhậm chức Giáo hoàng, số 4: PL 54, 155-156.

74. X. Thánh Irênê, Chống lạc giáo, III, 3, 2: PG 7, 848-849.

75. Tv 133,1.

76. Thánh Irênê, Chống lạc giáo, I, 10, 2: PG 7, 551.

77. X. Lc 22,32.

78. Lc 11,34.

79. 1 Cr 13,6-7.

Chia sẻ