Đàm đạo về “Summa Contra Gentiles” của thánh Tôma Aquinô - Kỳ XXI
Đàm đạo về “Summa Contra Gentiles”
của thánh Tôma Aquinô
(1225-1274)
*****
Mục 16. Mầu nhiệm Nhập Thể (phần 2)
IV. Lý do của việc Nhập thể
Cho đến nay thánh Tôma đã trình bày đức tin Công giáo liên quan đến mầu nhiệm Nhập thể: Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, Lời Thiên Chúa làm người. Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật: hai bản tính kết hợp với nhau trong một ngôi vị.
Tác giả muốn đào sâu thêm vấn đề với việc đặt câu hỏi: tại sao Con Thiên Chúa trở thành người phàm? Một lần nữa, chúng ta chỉ có thể gợi lên vài lý do thích hợp, chứ không thể nào hiểu biết tất cả lý do hành động của Thiên Chúa.
Có đoạn văn nào của Kinh Thánh giúp ta tìm ra câu trả lời không?
Trong kinh Tin kính đọc trong Thánh lễ ngày Chúa nhật, chúng ta tuyên xưng rằng: “Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế”. Như vậy việc Ngôi Lời nhập thể là để cứu độ chúng ta, và việc cứu độ hệ tại cứu chuộc chúng ta khỏi tội lỗi. Lý do này xem ra dựa trên lời tuyên bố của thánh Phaolô: “Do sự bất tuân của một người mà tất cả đã trở thành tội nhân, thì cũng nhờ sự vâng phục của một người mà muôn người được trở thành công chính” (Rm 5,19). Như vậy, vì tội của ông Ađam mà nhân loại đã mắc tội, cho nên cần Đức Kitô đến để cứu loài người ta khỏi tội lỗi. Một luận đề thần học khá cổ điển cho rằng: Cuộc Nhập thể nhắm cứu chuộc con người, do đó giả như con người không phạm tội thì không cần việc Nhập thể. Tuy nhiên cũng nên biết một luận đề khá phổ thông bên Đông phương, theo đó mục đích của việc Con Thiên Chúa làm người là để cho con người được làm con Thiên Chúa; vì thế việc Nhập thể vẫn diễn ra cho dù loài người không phạm tội. Dù sao, ở đây thánh Tôma dừng lại khá lâu để bàn về tội nguyên tổ, ra như là duyên cớ cho việc Ngôi Lời Nhập thể. Trên thực tế, ta có thể coi tội nguyên tổ như một đề tài riêng biệt mà thánh Tôma tìm cách giải thích bản chất của nó; sau đó ngài mới đưa ra những lý lẽ thích hợp của việc Nhập thể, được liệt kê thành 26 lý do.
A. Tội nguyên tổ
Tội nguyên tổ là tội gì?
Nên phân biệt hai khía cạnh: một bên là tội mà nguyên tổ đã phạm; bên kia là tội truyền lại cho tất cả loài người.
1/ Tội mà nguyên tổ phạm. Câu chuyện được kể lại ở Sách Sáng thế (2,15-17). Thiên Chúa đã ra lệnh cho ông Ađam là ông không ăn trái của cây biết lành biết dữ; ngày nào mà ông ăn thì chắc chắn sẽ chết. Trên thực tế, ông đã ăn nhưng không chết ngay tức khắc. Câu nói “chắc chắn sẽ chết” được giải thích như là ông sẽ phải chịu hình phạt là sự chết, tuy không xảy ra ngay khi phạm tội.
2/ Tội truyền lại cho tất cả loài người. Ông Ađam đã phạm tội cho nên ông phải chết; điều ấy không khó hiểu. Nhưng loài người là con cháu của ông cũng phải chịu hình phạt. Tại sao vậy? Tại vì tội của ông được truyền lại cho con cháu. Điều này khó hiểu: tội của ai thì người ấy chịu, chứ tại sao con cháu lại mang tội của cha mẹ? Đây không phải là suy luận của riêng ai nhưng dựa theo bản văn Kinh Thánh.
Kinh Thánh nói đến tội tổ tông truyền ở chỗ nào?
Đoạn văn rõ ràng hơn cả là thư Rôma chương 5 câu 12: “Vì một người duy nhất mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội”.
Ông Ađam đã phạm tội, gây ra tội cho con cháu. Tại sao con cháu mắc tội? tại vì chúng bắt chước cha ông hay sao?
Chắc là không phải tại vì bắt chước, bởi vì sự bắt chước giả thiết ý thức và tự do; đàng này Kinh Thánh không hề đề cập đến việc đó. Trong đoạn văn kế tiếp thánh Phaolô viết: “Từ thời Ađam đến thời Môsê, sự chết đã thống trị cả những người đã không phạm tội bất tuân như Ađam đã phạm” (Rm 5,14). Ngoài ra trong Thánh vịnh 50, chúng ta cũng đọc thấy lời xưng thú: “Ngài thấy cho: lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (câu 9). Như vậy con cháu mắc tội do truyền thụ.
Tội giả thiết một sự lựa chọn, nếu không có lựa chọn tự do thì đâu có thể mắc tội?
Đúng thế. Ở chương 51, thánh Tôma đã nêu lên 13 vấn nạn chung quanh tội nguyên tổi, và trong chương 52, ngài tìm cách trả lời các vấn nạn ấy. Trước khi trả lời các vấn nạn, ngài đưa ra vài dấu chỉ về tội nguyên tổ trong nhân loại. Nhân loại phải chịu nhiều thứ hình phạt, về thể xác và tinh thần. Trong những hình phạt thể xác, nặng nhất là cái chết; các hình phạt khác (đói khát, bệnh tật, vv) đều quy về đó cả. Trong những hình phạt tinh thần, nặng nhất là sự suy yếu của lý trí khiến cho con người khó biết được chân lý và thường rơi vào lầm lạc; ngoài ra con người khó vượt thắng các đam mê dục vọng. Đành rằng có thể coi những chuyện ấy như là khuyết điểm tự nhiên do điều kiện vật chất của con người: vật chất thì trước sau gì cũng bị hủy hoại; lý trí thì bị chi phối bởi giác quan cho nên khó vươn lên điều gì ngoài phạm vi khả giác. Nhưng nghĩ cho kỹ, nếu Thiên Chúa đã muốn dựng nên con người có linh hồn và thể xác, theo một trật tự đã ấn định: linh hồn phải điều khiển thể xác, thì sự xáo trộn trật tự ắt là đã xảy ra không do tự bản tính, mà do một tội nào đó, khi lý trí không suy phục Thiên Chúa, và rồi các quan năng khác không suy phục lý trí nữa. Những khuyết điểm nói trên không phải do bản tính tự nhiên, nhưng là hình phạt gây ra bởi tội lỗi. Từ đó ta có thể suy ra rằng nhân loại đã mắc một tội nào đó vào thởi nguyên thủy.
Bây giờ chúng ta điểm qua 13 vấn nạn, kèm theo những câu trả lời.
1/ Tội của một cá nhân không thể quy trách cho một người khác. Ông Êdêkiel viết rằng: “con không phải đền lỗi của cha” (18,20). Vì thế tội của người đầu tiên không thể quy trách cho toàn thể nhân loại.
Trả lời. Cần phân biệt giữa tội cá nhân và tội thuộc về bản tính của dòng giống. Nếu là tội cá nhân, thì mỗi người chịu trách nhiệm về hành vi của mình: khi ta phạm tội, thì ta mất ơn nghĩa với Chúa và gây ra xáo trộn trong con người của ta. Nhưng khi nguyên tổ phạm tội thì ông không những gây thiệt hại cho chính mình mà còn làm mất đi điều tốt thuộc về dòng giống nhân loại, (điều mà thần học gọi là “ơn công chính nguyên thủy”), tức là ân huệ mà loài người được hưởng hồi nguyên thủy: lý trí suy phục Thiên Chúa, thân xác suy phục linh hồn, các quan năng giác cảm suy phục lý trí. Những ân huệ ấy được ban cho loài người và được truyền thụ cho con cháu. Tiếc rằng bởi vì nguyên tổ phạm tội, nghĩa là lý trí không còn suy phục Thiên Chúa nữa, thì các trật tự khác cũng bị xáo trộn. Hệ quả này không chỉ ảnh hưởng đến bản thân nguyên tổ mà còn đến cả con cháu nữa.
2/ Khi ông Ađam phạm tội, chỉ có một mình ông. Tội là một hành vi, và chỉ thuộc về một con người đã hiện hữu. Vì thế không thể nói rằng tất cả chúng ta đã phạm tội nơi ông Ađam.
Trả lời. Khi nói rằng chúng ta đã phạm tội nơi ông Ađam thì không có nghĩa là chúng ta đã thực hiện một hành vi cùng với ông, nhưng theo nghĩa là chúng ta thuộc về dòng giống đã bị hư hỏng do tội của ông.
3/ Chủ thể phạm tội là linh hồn. Linh hồn không do cha mẹ sinh ra nhưng được Thiên Chúa tạo dựng từng người một. Vì thế không thể nào có chuyện truyền thụ tội của ông Ađam cho con cháu.
Trả lời. Không thể nói rằng nếu tội được truyền thụ từ cha mẹ cho con cái thì linh hồn cũng được truyền thụ. Sự truyền thụ này được hiểu về bản tính con người chứ không hiểu về linh hồn. Tuy bản tính con người gồm bởi xác và hồn, nhưng cha mẹ chỉ truyền thụ thân xác, còn linh hồn là do Thiên Chúa dựng nên.
4/ Giả như tội được tổ tông truyền thụ, thì Đức Kitô cũng mắc tội tổ tông bởi vì là dòng dõi loài người. Rõ ràng là điều này trái nghịch với đức tin.
Trả lời. Tuy Đức Kitô là hậu duệ của ông Ađam, nhưng Người không mắc tội nguyên tổ, bởi vì Người chỉ nhận chất liệu làm nên thân thể, còn sự thành hình nên thân thể thì không do quyền năng của ông Ađam nhưng do bởi Thánh Linh.
5/ Điều gì có được bởi nguồn gốc tự nhiên thì thuộc về bản tính tự nhiên. Thế nhưng điều gì thuộc về bản tính thì không thể là khuyết điểm hay tội lỗi, chẳng hạn như mù không phải là khuyết điểm đối với con chuột chũi. Vì thế tội lỗi không thể nào bắt nguồn từ nguyên tổ.
Trả lời. Các khuyết điểm của bản tính con người được truyền lại do nguồn gốc tự nhiên (bản tính); đó là những khiếm khuyết về sự trợ lực của ân sủng mà Thiên Chúa đã ban cho nguyên tổ. Sự mất mát xảy ra do hiệu quả tội lỗi nên mang hình thức lỗi lầm. Vì thế các khuyết điểm này bắt nguồn từ một tội của Ađam, và mang tính cách bản tính hư hỏng nơi hậu sinh.
6/ Trong các công trình thiên nhiên, khuyết điểm chỉ có thể xảy ra do sự thiếu sót một nguyên ủy tự nhiên nào đó. Điều này không thể nào xảy ra nơi người đầu tiên. Vì thế không thể từ nguồn gốc lệch lạc của nguyên tổ mà lại phát sinh tội lỗi nơi con cháu.
Trả lời. Khi nói đến thiên nhiên, thì có thể là điều do thiên nhiên gây ra, nhưng cũng có thể hiểu về một ân huệ được ban cho bản tính nhân loại lúc ban đầu[1]. Ơn này đã bị mất do nguyên tổ của nhân loại.
7/ Tôi lỗi hoặc khuyết điểm xảy ra nơi các công trình thiên nhiên do sự hư hỏng của vài nguyên ủy là điều họa hiếm xảy ra. Vì thế giả như tội mà ông Ađam truyền lại cho con cháu do nguồn gốc hư hỏng thì chỉ xảy cho vài cá nhân chứ không cho hết tất cả mọi người.
Trả lời. Những khuyết điểm nơi các công trình tự nhiên do sự hư hỏng của vài nguyên ủy thì xảy ra cho vài trường hợp. Tuy nhiên khuyết điểm do tội nguyên tổ gây ra là do sự thiếu sót một nguyên ủy phụ cấp, tức là thiếu ân sủng. Sự thiếu sót này gây ra khuyết điểm cho toàn thể bản tính nhân loại.
8/ Hậu quả thì phù hợp với nguyên nhân. Sự sinh sản là một hành vi thể lý thì không thể nào mang tính lý trí, nghĩa là không thể thuộc về hạng tội lỗi được, bởi vì tội lỗi thuộc về hạng lý trí. Do đó không thể nào một tội lỗi có thể bắt nguồn từ tổ tiên do một sự xấu nguyên thủy được.
Trả lời. Không gì ngăn cản có thể gặp thấy trong khả năng sinh sản một sự xấu do tội nguyên tổ thuộc về bản tính, bởi vì những hành vi của khả năng sinh sản thuộc về bản tính.
9/ Tội lỗi không thể nào tước mất một điều thiện của thiên nhiên. Thế mà sự sinh sản là một điều thiện của thiên nhiên. Vì thế tội của người đầu tiên không thể làm hư hỏng nguồn gốc sự sinh sản đến nỗi truyền thụ tội lỗi cho hậu thế.
Trả lời. Tội ông Ađam không loại bỏ điều thiện của thiên nhiên (theo bản tính), nhưng chỉ tước mất điều thiện của ân sủng được thêm vào.
10/ Con người sinh ra những đứa con giống với mình về chủng loại. Thế nhưng không thể xếp tội lỗi vào những yếu tố của chủng loại. Vì thế, không đương nhiên từ tội lỗi của một người đầu tiên mà sinh ra các đứa con tội nhân khác.
Trả lời. Ân sủng không được xếp vào những yếu tố cốt yếu của loài người, nhưng được Thiên Chúa ban cho con người đầu tiên để truyền lại cho nhân loại; thế nhưng ông đã mất nó tại lỗi của mình cho nên không thể truyền lại cho hậu thế được.
11/ Con cái giống với cha mẹ hơn là tổ tiên. Thế nhưng đôi khi cha mẹ không có tội và không phạm tội gì trong chính việc sinh sản. Vì thế không có chuyện tất cả mọi người sinh ra đã là tội nhân do tội của tổ tiên.
Trả lời: Bản tính con người không được hoàn toàn chữa lành nhờ bí tích Thánh Tẩy và các Bí tích khác, vì thế do các hành vi của bản tính, tội nguyên tổ vẫn tiếp tục được truyền thụ. Vì thế, nơi cha mẹ xét như là cá nhân thì tội đã hết và cũng có thể hành vi sinh sản cũng chẳng có tội gì; tuy nhiên xét như là nguyên ủy tự nhiên của việc sinh sản, thì vẫn còn dấu vết tội nguyên tổ vì thuộc về bản tính.
12/ Nếu mà tội lỗi của tổ tiên được truyền lại cho con cháu, thì sự thống hối và sự công chính lại càng đáng truyền thụ hơn nữa, bởi vì làm việc tốt thì có mãnh lực hơn là làm điều xấu.
Trả lời. Một khi mà bản tính đã bị mất hồng ân được ban cho nhân loại, thì những hành vi của nguyên tổ chỉ còn mang tính cách cá nhân và có thể tự mình sửa chữa; tuy nhiên ông không thể đền bù thay cho tất cả nhân loại hoặc lấy lại điều tốt được ban cho bản tính.
13/ Nếu tội của người đầu tiên được truyền lại cho hậu thế, thì kể cả tội của các tổ tiên ông bà khác cũng được truyền cho con cháu. Như vậy thì càng sinh sau thì càng chồng chất thêm tội.
Trả lời. Tội của các tổ tiên ông bà khác xảy ra khi bản tính đã mất đi hồng ân được ban hồi nguyên thủy rồi. Vì thế tội của họ chỉ mang tính cách cá nhân, chứ không truyền lại cho con cháu.
B. Sự thích hợp của việc Nhập thể
Sau khi đã bàn về những vấn nạn liên quan đến việc Nhập thể, (và một dấu ngoặc về tội nguyên tổ, chương 50-52), thánh Tôma bàn về sự thích hợp của việc Nhập thể, qua những luận cứ tích cực (chương 54), rồi đến những vấn nạn chống lại sự thích hợp (chương 53) kèm theo những câu trả lời (chương 55).
Đâu là những luận cứ về sự thích hợp?
Sau đây là những luận cứ được thánh Tôma đưa ra.
1/ Sự nhập thể của Thiên Chúa là sự trợ lực hữu hiệu nhất giúp cho con người đạt đến hạnh phúc, tức là sự hưởng kiến Thiên Chúa. Thật vậy, con người tự sức mình không thể nào kết hợp được với bản tính Thiên Chúa. Vì thế việc Thiên Chúa kết hợp với bản tính con người cho thấy rằng điều ấy có thể đạt được.
2/ Nhờ việc Ngôi Lời nhập thể, được cất đi những điều ngăn cản con người đạt đến hạnh phúc. Một ngăn trở là con người không biết phẩm giá của mình cho nên đặt cứu cánh cuộc đời những vật thấp kém hơn là Thiên Chúa, tựa như những thỏa mãn giác quan và thân xác (giống như loài súc vật). Có những người khác bị quyến rũ thờ lạy các thần linh thụ tạo mà họ nghĩ rằng cao cả. Vì thế để tỏ cho người biết đâu là hạnh phúc đích thực, Thiên Chúa đã mặc lấy bản tính con người, dạy con người từ bỏ các đam mê giác cảm và thờ lạy Thiên Chúa chân thật.
3/ Hạnh phúc con người hệ tại sự hiểu biết Thiên Chúa vượt quá khả năng của trí tuệ. Làm thế nào con người chắc chắn có thể đạt tới sự hiểu biết ấy? Điều này chỉ có thể thực hiện được nhờ mặc khải mà Lời Thiên Chúa dạy cho chúng ta: “Chưa ai thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng chính Con Một, ở trong lòng Cha, đã mặc khải cho chúng ta” (Ga 1,18). Đức Kitô đến để làm chứng cho sự thật (Ga 18,37).
4/ Hạnh phúc con người hệ ở hưởng kiến Thiên Chúa. Điều này được chuẩn bị bằng việc chúng ta yêu mến Ngài. Để thúc đẩy chúng ta mến Chúa thì chính Ngài đã làm người để mặc khải tình yêu của Ngài dành cho chúng ta.
5/ Hạnh phúc con người là phần thưởng nhân đức; vì thế để được hạnh phúc, con người cần thực hành nhân đức. Chúng ta có thể được thúc đẩy thi hành nhân đức nhờ một kẻ làm gương bằng lời nói và việc làm. Có mẫu gương nào tuyệt vời hơn là Thiên Chúa làm người: “Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng làm như vậy” (Ga 13,15).
6/ Tội lỗi ngăn cản con người đạt đến hạnh phúc, bởi vì tội lỗi trái nghịch với lòng mến Chúa. Thế nhưng loài người đã phạm tội cho nên cần phương thuốc để chữa trị. Phương thuốc này chỉ có thể đến từ Thiên Chúa, Đấng có thể tha thứ cho con người và tái lập trật tự nơi con người. Làm thế nào con người biết chắc rằng mình được tha thứ? Thưa rằng nhờ Thiên Chúa làm người. “Để các người biết được rằng Con Người có quyền tha tội...” (Mt 9,6) “Máu của Đức Kitô sẽ thanh tẩy chúng ta khỏi những công việc của cái chết, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống” (Hr 9,14).
7/ Tất cả nhân loại đã bị hoen ố bởi tội lỗi. Lẽ công bình đòi hỏi rằng cần phải đền tội thì mới có thể được tha thứ. Thử hỏi ai có thể thay mặt cho nhân loại để đền bù thay cho toàn thể nhân loại? Kẻ ấy vừa thuộc về loài người lại, vừa ở trên mọi người ngõ hầu có thể lập công thay cho tất cả mọi người. Duy chỉ một vị Thiên Chúa làm người mới có khả năng làm điều ấy. Thánh Gioan Tẩy giả nói đúng khi giới thiệu Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, như là Chiên Thiên Chúa, xóa bỏ tội lỗi của thế gian (x. Ga 1,29).
Đâu là những vấn nạn chống lại sự thích hợp của việc Nhập thể?
Thánh Tôma đưa ra 26 vấn nạn chống lại sự thích hợp hoặc sự bất khả thi của việc Nhập thể, và sau đó đưa ra lời giải đáp.
1/ Trật tự vạn vật đòi hỏi rằng Thiên Chúa phải được suy tôn lên trên tất cả mọi loài. Vì thế thật là không thích hợp khi Đấng Tối cao kết hợp với bản tính nhân loại.
Trả lời. Tuy rằng bản tính Thiên Chúa vượt lên bản tính con người ngàn trùng, nhưng con người đã được tạo dựng để được kết hợp với Thiên Chúa. Thiên Chúa đã khai mào sự kết hợp này bằng việc Ngôi Lời nhập thể. Dù sao, việc con người được xích lại gần Thiên Chúa không làm mất phẩm giá của Ngài. Thiên Chúa thông ban sự tốt lành của Ngài cho thụ tạo mà không hề bị mất mát thiệt thòi gì cả.
2/ Nếu việc Thiên Chúa làm người là điều thích hợp thì phải thấy điều gì ích lợi. Thế nhưng để gây ra điều ích lợi ấy, thì chỉ cần một hành vi ý muốn của Chúa là đủ. Vì thế việc Nhập thể là thừa thãi.
Trả lời. Tuy rằng một hành vi ý muốn của Thiên Chúa đã đủ để thực hiện mọi sự; tuy nhiên sự khôn ngoan của Thiên Chúa đòi hỏi rằng Thiên Chúa xếp đặt mỗi việc một cách tương xứng. Vì thế Ngài đã ấn định những nguyên nhân cân xứng cho mỗi việc.
3/ Bởi vì Thiên Chúa là nguyên nhân phổ quát của tất cả mọi vật, cho nên Ngài phải nhắm đến toàn thể vạn vật. Thế nhưng việc nhận lấy bản tính loài người thì chỉ hữu ích cho loài người mà thôi. Vì thế Thiên Chúa chỉ nhận lấy bản tính nhân loại mà thôi là điều không xứng hợp.
Trả lời. Bản tính con người vừa gồm yếu tố thiêng liêng vừa gồm yếu tố thể xác, cho nên gói ghém tất cả muôn vật. Vì thế thật là xứng hợp khi Thiên Chúa là nguyên nhân phổ quát của muôn vật nhận lấy bản tính con người, nhờ vậy có thể tiếp xúc với tất cả mọi loài. Cần thêm rằng Thiên Chúa cần nhận lấy một bản tính có lý trí hầu có thể hành động như một tác nhân chính yếu chứ không như một dụng cụ.
4/ Xét về sự gần gũi Thiên Chúa thì bản tính thiên thần thì giống với Ngài hơn là bản tính loài người. Vì thế Thiên Chúa nhận lấy bản tính con người hơn là bản tính thiên thần là điều không thích hợp.
Trả lời. Tuy rằng bản tính thiên thần cao hơn bản tính loài người, nhưng Thiên Chúa nhận lấy bản tính con người thì thích hợp hơn vì nhiều lý do:
a) Bởi vì tội con người có thể sửa chữa được, xét vì con người không gắn bó vĩnh viễn với điều tốt hơn điều xấu như là các thiên thần. Thực vậy, lý trí con người đi từ vật khả giác rồi dần dần khám phá chân lý; con người có thể thay đổi lập trường. Trái lại, thiên thần hiểu biết bằng trực giác cho nên kết luận chắc chắn bền vững; vì thế thiên thần không thể thay đổi được. Thế nhưng bởi vì nguyên nhân chính của việc nhập thể là để cứu chữa khỏi tội lỗi (x. Mt 1,21; 1 Tm 1,1), cho nên Thiên Chúa nhận lãnh bản tính con người thì thích hợp hơn là nhận bản tính thiên thần.
b) Bởi vì bản tính thiên thần gần gũi với Thiên Chúa cho nên dễ biết Ngài hơn là loài người. Vì thế đối với thiên thần chỉ cần được soi sáng trí tuệ là đủ biết chân lý. Còn con người bắt đầu hiểu biết từ các giác quan, cho nên cần đến Thiên Chúa tỏ mình qua hình thức giác quan; điều này được thực hiện nhờ việc nhập thể.
c) Con người cần được Thiên Chúa nhận lấy để nuôi dưỡng niềm hy vọng đạt được hạnh phúc; còn thiên thần dễ biết Thiên Chúa rồi cho nên không cần đến sự giúp đỡ như là con người.
5/ Việc nhập thể tạo cơ hội cho con người rơi vào sai lạc, bởi vì làm cho họ nghĩ rằng Thiên Chúa không ở bên trên các thân xác. Vì thế tốt hơn là Thiên Chúa đừng mang lấy bản tính con người.
Trả lời. Việc Thiên Chúa nhận lấy bản tính con người không phải là cơ hội gây ra lầm lạc, bởi vì trong việc Ngôi Lời Nhập thể, bản tính Thiên Chúa và bản tính con người tuy kết hợp với nhau nhưng vẫn phân biệt, bởi vì sự hợp nhất diễn ra ở nơi ngôi vị chứ không phải ở nơi bản tính.
6/ Kinh nghiệm cho thấy rằng chung quanh việc Nhập thể đã nảy sinh nhiều lạc thuyết. Vì thế xem ra Thiên Chúa nhập thể là điều không thích hợp.
Trả lời. Mặc dù chung quanh việc Nhập thể đã nảy sinh nhiều lạc thuyết, nhưng nhờ việc Nhập thể mà nhiều sai lầm hơn nữa đã bị xua đuổi, bởi vì con người có thể nhận biết Thiên Chúa thật, Đấng Ngài ở gần với chúng ta hơn.
7/ Trong những công trình của Thiên Chúa, việc vĩ đại nhất là Ngôi Lời Nhập thể, và kết quả đáng mong đợi hơn cả là tất cả mọi người được cứu độ. Thế mà xem ra không phải tất cả mọi người được cứu độ, cho nên sự Nhập thể là điều không thích hơp.
Trả lời. Nhờ việc Nhập thể mà ơn cứu độ được ban cho nhân loại, nhưng không nhất thiết là tất cả mọi người đều được cứu rỗi; bởi vì để được cứu rỗi cần phải chấp nhận việc Nhập thể nhờ đức tin và các Bí tích. Việc Nhập thể có đủ sức cứu độ tất cả mọi người, nhưng không phải tất cả mọi người đều muốn được cứu độ vì thế họ đã khước từ hoa trái của việc Nhập thể. Mặt khác, không nên tước đoạt sự tự do của con người muốn tiếp nhận Thiên Chúa nhập thể hay không.
8/ Nếu Thiên Chúa nhận lấy bản tính con người, xem ra thiên tính của Ngài cần được biểu lộ bằng những dấu chỉ cân xứng. Điều này xem ra đã không xảy ra, bởi vì kể cả nhiều người khác cũng làm những phép lạ như Chúa Giêsu hoặc hơn Người, như chính Người đã nói (Ga 14,12). Vì thế xem ra việc Nhập thể chưa hữu hiệu để nhân loại được cứu độ.
Trả lời. Việc Nhập thể đã được tỏ lộ cho con người bằng những dấu chỉ cân xứng, nghĩa là với một loạt những phép lạ mà duy Thiên Chúa mới làm được. Không có lý gì nếu vấn nạn là nhiều người khác cũng làm những phép lạ như Ngôi Lời nhập thể hoặc còn hơn nữa, bởi những người ấy làm phép lạ nhân danh và nhờ quyền thế của Chúa Kitô, còn Người làm với uy quyền của mình.
9/ Nếu việc Nhập thể cần thiết để cứu độ nhân loại thì lẽ ra phải xảy ra từ lúc nguyên thủy chứ không nên chờ mấy ngàn năm sau.
Trả lời. Việc Thiên Chúa nhập thể ngay từ lúc khởi thủy là điều không tiện lợi, ít là vì 3 lý do.
a) Bởi vì Ngôi Lời phải mang cho nhân loại thuốc chữa trị tội lỗi; thế nhưng không tiện trao thuốc cho bệnh nhân trước khi họ nhận ra lỗi lẫm của mình. Vì thế, Thiên Chúa đã bỏ mặc tội nhân một thời gian để họ nhận ra rằng mình không thể tự sức riêng mà được cứu độ.
b) Bởi vì Ngôi Lời phải mang lại cho con người những huấn thị và mệnh lệnh hoàn thiện. Thế nhưng bản tính con người đòi hỏi rằng đừng đưa đến sự hoàn hảo ngay tức khắc, nhưng là được hướng dẫn dần dần từ chỗ bất toàn đến chỗ hoàn bị, giống như các em bé lúc đầu được dạy những khái niệm sơ đẳng rồi dần dần mới đến những điều cao siêu hơn. Loài người cũng cần được chuẩn bị về ơn cứu độ nhờ các lời dạy sơ cấp qua lề luật và các ngôn sứ, rồi sau một thời gian dài, mới đến giáo huấn hoàn bị của Đức Kitô. Thánh Phaolô viết: “Khi thời gian đến hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con của Ngài đến” (Gl 4,4); trước đó ông cũng ví Lề luật như người quản giáo dẫn chúng ta đến với Đức Kitô (x. Gl 3,24).
c) Bởi vì việc Ngôi Lời nhập thể cần được chuẩn bị giống như nhà vua được các người hầu cận dọn đường trước; một cách tương tự như vậy, nhân loại được chuẩn bị để đón tiếp Thiên Chúa Nhập thể bằng những lời hứa và giáo huấn, nhờ vậy họ sẽ tăng thêm lòng ao ước và dễ tin vào lời giảng của Ngài.
10/ Nếu như việc Nhập thể là cần thiết, thì lẽ ra Thiên Chúa nhập thể phải ở lại với loài người cho đến tận thế để dạy dỗ và hướng dẫn họ nhờ sự hiện diện của mình.
Trả lời. Không cần Ngôi Lời nhập thể phải sống với nhân loại cho đến tận thế; trái lại, điều ấy có thể làm suy giảm lòng tôn kính dành cho Người. Thật vậy, khi thấy Người hòa đồng giữa loài người, họ không còn coi Người có gì khác lạ những người khác. Ngược lại sau khi đã thực hiện những điều kỳ lạ, người ta bắt đầu kính trọng Người hơn nữa. Vì lẽ ấy, bao lâu còn sống giữa nhân loại, Người đã không ban Thánh Linh cho họ, bởi vì Người có ra đi thì tâm hồn họ được chuẩn bị hơn để nhận lãnh các ân huệ thiêng liêng, như Người đã nói: “Nếu Thầy không ra đi, thì Đấng An ủi sẽ không đến với các con; nhưng nếu Thầy ra đi thì Thầy sẽ phái Ngài đến” (Ga 16,7).
11/ Giả như Ngôi Lời có một thể xác bất tử, không bị đau khổ và vinh quang, thì việc nhập thể của Người sẽ mang lại cho con người một niềm hy vọng bền vững và chắc chắn hơn về hạnh phúc tương lai. Vì thế xem ra không thích hợp việc Người nhận lấy một thể xác chịu đau khổ và phải chết.
Trả lời. Thật là thích hợp việc Ngôi Lời nhận lấy một thể xác chịu đau khổ và phải chết, vì nhiều lý do.
a) Loài người cần nhận biết ân huệ nhập thể để bừng lên lòng yêu mến Chúa. Thế nhưng để bày tỏ chân lý của việc Nhập thể, thì cần Ngôi Lời nhận lấy một thể xác giống như bao người khác, nghĩa là chịu đau khổ và phải chết. Giả như Người nhận lấy một thể xác không chịu đau khổ và không chết, thì thiên hạ có thể nghĩ rằng đó là ảo ảnh chứ không phải là người thật.
b) Thiên Chúa nhận lấy thể xác để đền tạ vì tội lỗi của nhân loại. Thế nhưng, một người chỉ có thể đền bù cho người khác nếu tự nguyện nhận lấy hình phạt do tội lỗi của người khác; vậy mà hình phạt do tội của loài người là cái chết và những đau khổ trên đời này, như thánh Phaolô đã viết: “Vì một người mà tội đã vào thế gian và cùng với tội là cái chết” (Rm 5,12). Bởi thế cần Thiên Chúa nhận một thể xác giống như các tội nhân, nghĩa là chịu đau khổ và chịu chết để đền tội cho chúng ta như thánh Phaolô đã viết (x. Rm 8,3), ngõ hầu cất đi tội lỗi nhờ hình phạt mang lấy trong thân xác.
c) Nhờ có một thể xác chịu đau khổ và chịu chết, Người mang lại cho ta cách hữu hiệu hơn tấm gương về các nhân đức, qua việc can đảm chịu đựng những đau khổ trong thân xác.
d) Chúng ta được tăng thêm hy vọng được bất tử, bởi vì Người từ tình trạng chịu đau khổ và chịu chết đã bước sang tình trạng không đau khổ và bất tử trong thân xác, nên chúng ta hy vọng cũng được như vậy; giả như ngay từ đầu Người đã có thân xác không đau khổ và không chết thì chúng ta không được niềm hy vọng như thế.
e) Chức vụ trung gian đòi hỏi Người phải có chung với chúng ta thân xác chịu đau khổ và phải chết, và có chung với Thiên Chúa quyền lực và vinh quang.
12/ Để chúng tỏ rằng mọi sự đều bắt nguồn từ Thiên Chúa, thì thích hợp với Lời nhập thể sống trong sung túc và danh giá hơn là sống khó nghèo, khiêm tốn, thậm chí còn bị khinh chê nữa. Do đó xem ra cách thức mà đức tin dạy về Ngôi Lời nhập thể là không thích hợp
Trả lời. Ngôi Lời nhập thể không nên sống một cuộc đời giàu sang phú quý, đầy danh giá, ít là vì hai lý do.
- Một là bởi vì Người đến để đưa lòng con người khỏi dính bén với những của cải trần tục và họ lên những việc trên trời; để được như vậy, Người muốn đưa một tấm gương của mình.
- Hai là nếu Người có nhiều của cải và chức vụ, thì những việc Người thi hành do Thiên tính sẽ được gán cho quyền hành thế gian hơn là cho quyền lực Thiên Chúa. Bởi vậy, việc Người thay đổi thế giới do quyền năng Thiên Chúa sẽ nổi bật hơn khi Người không dựa vào quyền lực thế gian.
13/ Do sự hạ mình, Thiên tính của Người bị che khuất. Thế mà Người cần được mọi người nhận biết là Thiên Chúa nhập thể. Do đó điều mà đức tin dạy thì xem ra không thích hợp đối với ơn cứu độ nhân loại.
Trả lời. Vấn nạn này đã được trả lời trong câu giải đáp vấn nạn trước đây.
14/ Người ta nói rằng Con Thiên Chúa chịu chết vì vâng phục Chúa Cha. Thế nhưng ý muốn của Cha không thể nào phi lý. Vì thế không thể nào quan niệm được cái chết của Lời nhập thể là thích hợp.
Trả lời. Chắc chắn là Con Thiên Chúa đã chịu chết do sự vâng phục Chúa Cha vì lòng yêu mến Cha và yêu thương nhân loại, như Tin Mừng đã nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn là hiến mạng mình vì bạn hữu” (Ga 15,13). Vì thế, khi vâng lời Chúa Cha, Người đã thi hành hành vi hoàn hảo nhất của đức ái qua việc chết để làm vinh danh Cha và để cứu độ loài người. Điều này cũng không phải là không thích hợp với Thiên tính, bởi vì khi Đức Kitô chịu đau khổ và chịu chết, thì Thiên tính của Người vẫn không bị tổn thương, tuy rằng do sự hợp nhất ngôi vị, ta có thể nói là Thiên Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết; điều này cũng tương tự như khi nói con người chết: thực ra chỉ có thân xác mới chết, chứ linh hồn thì bất tử.
15/ Thiên Chúa không muốn cho con người phải chết, nhưng muốn cho nó trở lại để được sống (x. Ed 18,23); Ngài càng không muốn cho người hoàn hảo nhất trong loài người phải chết.
Trả lời. Phải nói rằng Thiên Chúa không muốn trực tiếp cái chết của loài người, phương chi là cái chết của Đức Kitô. Tuy vậy, cái chết của Đức Kitô nằm trong ý định của Chúa Cha, xét vì Người chấp nhận vì lòng yêu mến Cha và loài người, và Người đã chịu chết cách can đảm.
16/ Xem ra tàn bạo khi ra lệnh cho một người vô tội phải chết thay cho những người có tội đáng chết. Thế mà Đức Giêsu vô tội, vì thế thật là tàn bạo khi Người phải chết theo lệnh của Chúa Cha.
Trả lời. Việc Chúa Cha muốn cho Đức Giêsu phải chết không phải là tàn bạo, bởi vì Ngài không cưỡng bách kẻ không muốn nhưng Ngài hài lòng vì Đức Kitô chấp nhận cái chết vì tình yêu; hơn nữa, chính Chúa Cha đã đổ tình yêu thương ấy vào tâm hồn Đức Kitô.
17/ Xem ra không đủ sức thuyết phục lý do nói rằng Đức Kitô chấp nhận cái chết để nêu gương khiêm tốn theo lời thánh Phaolô (x. Pl 2,5.8). Thực vậy, đức khiêm tốn đáng ca ngợi ở nơi một người có cấp trên mà họ phải suy phục. Điều này không thể áp dụng cho Thiên Chúa. Vì thế không thích hợp việc Lời Thiên Chúa hạ mình cho nỗi chịu chết.
Trả lời. Không có gì ngăn trở việc khẳng định rằng Đức Kitô chịu chết trên thập giá để nêu gương khiêm tốn. Quả thật nơi Thiên Chúa không thể có sự khiêm nhường bởi vì nhân đức khiêm nhường hệ tại biết giữ mình trong giới hạn chứ không đi tìm những gì cao hơn, song tùng phục các cấp trên của mình. Vì thế đức khiêm nhường không thích hợp cho Thiên Chúa, bởi vì Ngài không có cấp trên. Thế thì đức khiêm nhường hợp với Đức Kitô như thế nào? Thưa không phải xét theo bản tính Thiên Chúa ngang hàng với Cha, nhưng xét theo bản tính con người mà Người đã nhận vì yêu thương chúng ta. Nhưng tại sao lại khiêm nhường cho đến nỗi chịu chết trên thập giá? Thưa rằng Người muốn chịu cái chết nhục nhã trên thập giá để đưa lòng con người từ chỗ yêu thích vinh quang thế trần đến chỗ yêu mến vinh quang Thiên Chúa. Và bởi vì có những con người tuy không sợ cái chết nhưng rất sợ cái chết nhục nhã, nên Chúa đã muốn khích lệ con người đối diện với cái chết như vậy bằng tấm gương của mình.
18/ Con người có thể được dạy dỗ đức khiêm nhường hoặc là bằng lời Chúa mà ta phải tin, hoặc là bằng tấm gương của những người khác. Vì thế không cần Lời Thiên Chúa nhập thể và nếm cái chết, cái chết nhục nhã.
Trả lời. Để thúc đẩy hành động thì các việc làm có hiệu lực hơn là những lời nói; và các việc làm càng có hiệu lực khi được biết lòng tốt của người đã thực hiện chúng. Vì thế tuy đã có tấm gương tốt lành từ những người khác, nhưng sẽ rất thích hợp khi loài người được thúc đẩy bởi tấm gương của Thiên Chúa làm người, Đấng không thể nào sai lầm, và Ngài càng cao sang bao nhiêu thì đức khiêm nhường của Ngài càng đáng khâm phục bấy nhiêu.
19/ Ai nói rằng Đức Kitô cần phải chịu sỉ nhục và chịu chết để xóa bỏ tội lỗi chúng ta (x. Rm 4,25) thì xin thưa lại rằng điều ấy không công bình; nhất là tội lỗi con người được xóa bỏ nhờ ân huệ của Thiên Chúa.
Trả lời. Đức tin dạy rằng Đức Giêsu Kitô chịu chết để xóa bỏ các tội lỗi của chúng ta. Điều này xảy ra do việc Người, tuy là kẻ vô tội, đã muốn chịu chết vì tội, ngõ hầu mang lấy trên mình hình phạt dành cho các tội nhân và đền thay cho họ. Vì thế tuy ân huệ của Thiên Chúa đã đủ để tha thứ tội lỗi, nhưng việc tha thứ cũng đòi hỏi người phạm tội phải làm một điều gì đó, tức là đền bù sự xúc phạm đến Thiên Chúa. Thế nhưng xét rằng loài người không thể làm điều này được, cho nên Đức Kitô đã làm thay cho mọi người, bằng cách tự nguyện chấp nhận cái chết vì lòng yêu thương.
20/ Thật là điều thích hợp khi người đã phạm tội thì cũng làm việc đền tội: mỗi người hãy mang lấy gánh nặng của mình (x. Gl 6,5).
Trả lời. Cần phải phạt kẻ đã phạm tội; tuy nhiên có thể một người khác lãnh hình phạt để đền bù thay cho người phạm tội. Đó là điều Đức Giêsu đã làm khi lãnh hình phạt thay cho chúng ta.
21/ Có thể một thiên thần nhập thể đã đủ để đền bù thay cho chúng ta được không, xét vì bản tính thiên thần cao hơn chúng ta.
Trả lời. Không ai có khả năng đền bù thay cho tất cả nhân loại; ngay cả một thiên thần cũng vậy, bởi vì mặc dù thiên thần cao hơn loài người xét về bản tính, nhưng xét về việc tham dự hạnh phúc mà việc đền bù mang đến, thì thiên thần cũng ngang với loài người.
22/ Một tội không thể nào được đền bù bằng những tội khác. Nếu như Đức Giêsu phải đền bù tội lỗi bằng cái chết của mình thì cần làm thế nào để cái chết ấy không lôi kéo theo tội của người khác, nghĩa là bằng một cái chết tự nhiên và không hung bạo.
Trả lời. Cái chết của Đức Kitô có sức mạnh đền tội không phải do tội lỗi của những kẻ giết Người nhưng là do đức mến đã thúc đẩy Người tình nguyện chấp nhận cái chết. Vì thế không thể nói được rằng tội của loài người được xóa bỏ nhờ những kẻ đã đóng đinh Người.
23/ Nếu như Đức Kitô chết vì tội lỗi của nhân loại, ắt Người sẽ phải chết nhiều lần bởi vì loài người phạm tội nhiều lần.
Trả lời. Không cần Đức Kitô phải chết mỗi lần loài người phạm tội. Cái chết của Đức Kitô đã đủ để đền cho cái chết của tất cả, hoặc bởi vì tình yêu vô biên vì đó mà Người muốn chịu chết, hoặc bởi vì tư cách cao trọng của kẻ đền tội, là Thiên Chúa và là người. Ngay cả trong công lý loài người, một người càng ở địa vị cao bao nhiêu, thì hình phạt mà họ chịu lại càng lớn lao bấy nhiêu.
24/ Nếu những người khác không có sức đền tội nguyên tổ đã làm hư hỏng bản tính con người, thì xem ra cái chết của Đức Kitô cũng chẳng có sức đền tội tất cả các tội lỗi của nhân loại. Thật vậy, Người đã chết theo bản tính con người chứ không phải theo bản tính Thiên Chúa.
Trả lời. Cái chết của Kitô đã đủ để đền bù tội lỗi của tất cả nhân loại. Thật vậy, mặc dù Người chỉ chết xét như là con người, nhưng giá của cái chết bắt nguồn từ tư cách của người chịu chết, nghĩa là tư cách của Con Thiên Chúa.
25/ Nếu Đức Kitô đã đền bù các tội lỗi của nhân loại, thì thật là bất công khi loài người còn phải chịu những hình phạt do tội, như Kinh Thánh đã nói.
Trả lời. Mặc dù đối với tội nguyên tổ, Đức Kitô đã đền bù hoàn toàn, tuy nhiên không phải là bất công khi những hình phạt do tội nguyên tổ vẫn tồn tại nơi những người đã được Đức Kitô cứu chuộc. Thực vậy, sự tồn tại của hình phạt sau khi đã diệt trừ tội lỗi rồi vẫn hữu ích và hợp lý ít là vì ba lý do sau đây:
a) Ngõ hầu có sự tương đồng giữa các tín hữu và đức Kitô như là sự tương đồng giữa các chi thể với đầu; Đức Kitô đã chịu nhiều đau khổ trước khi đi vào vinh quang bất tử, thì các tín hữu cũng nên chịu đựng đau khổ trước khi đạt đến sự trường sinh, ra như mang lấy chính những dấu tích cuộc tử nạn Đức Kitô ngõ hầu trở nên giống với Người trong vinh quang, như thánh Phaolô đã nói: “Nếu đã là con cái, thì chúng ta cũng sẽ là những người thừa kế: thừa kế của Thiên Chúa, đồng thừa kế của Đức Kitô, nếu thật sự chúng ta thông phần vào những đau khổ của Người để được thông phần vào vinh quang của Người” (Rm 8,17).
b) Bởi vì giả như nhờ việc tin theo Đức Kitô mà loài người sẽ lập tức được hưởng ơn không phải đau khổ và không phải chết, thì nhiều người sẽ tin theo Đức Kitô vì những ơn ích thể xác hơn là vì những ơn ích tinh thần; điều này trái ngược với ý định của Đức Kitô, Đấng đã đến thế gian để đưa nhân loại từ chỗ yêu thích những điều thiện hảo thể xác đến chỗ yêu thích những điều thiện hảo tinh thần.
c) Bởi vì nếu các môn đệ của Đức Kitô sẽ lập tức được khỏi đau khổ và khỏi chết, thì điều này có thể đưa đến việc cưỡng bách loài người phải chấp nhận đức tin Kitô giáo; điều này sẽ làm mất công trạng của đức tin.
26/ Nếu Đức Kitô đã đền bù thỏa đáng tất cả các tội lỗi của loài người, thì tại sao lại cần đến phép tha tội? Vì thế xem ra Đức Kitô chưa hủy bỏ trọn vẹn các tội của loài người.
Trả lời. Mặc dầu nhờ cái chết Đức Kitô đã đền bù thỏa đáng các tội lỗi của loài người, như sự đền bù này cần được áp dụng cho từng linh hồn; điều này được thực hiện nhờ các Bí tích. Cũng như tội của ông Ađam đạt tới mỗi người do nguồn gốc sinh đẻ thể xác thế nào, thì công hiệu cái chết của Đức Kitô cũng đạt tới mỗi người do sự tái sinh thiêng liêng, nhờ đó con người được liên kết và hợp nên một thân thể với Đức Kitô như vậy. Vì thế cần mỗi người tìm cách được tái sinh bởi Đức Kitô và lãnh nhận những phương dược trong đó cái chết của Người được tác dụng. Nên nhớ rằng ơn cứu độ của con người được phát sinh từ Đức Kitô không phải qua việc truyền thụ bản tính nhân loại nhưng nhờ việc con người cam kết tin theo Người. Những gì mà mỗi người lãnh nhận bởi Đức Kitô là một thiện hảo cá nhân; sự thiện hảo này không lan truyền cho hậu thế như tội ông Ađam lan truyền qua bản tính. Vì thế mặc dù cha mẹ đã được Đức Kitô chữa lành khỏi tội nguyên tổ, nhưng con cái của họ sinh ra trong tội nguyên tổ, cho nên cần đến bí tích Thánh tẩy.
Chúng ta thấy rằng tuy mục này mang tựa đề Mầu nhiệm Nhập Thể, nhưng thánh Tôma kéo dài sang mầu nhiệm Cứu chuộc nữa. Những hoa trái của hồng ân Cứu chuộc được ban cho chúng ta qua các Bí tích[2]. Đó là ý nghĩa của tựa đề của mục tiếp theo.
[1] Nên lưu ý là danh từ natura có thể dịch ra tiếng Việt bằng nhiều danh từ khác nhau: bản tính, tự nhiên, thiên nhiên.
[2] Nên biết là vào thời thánh Tôma, chưa có khảo luận về Giáo hội học (Ecclesiologia). Môn này ra đời một thế kỷ sau đó. X. Phan Tấn Thành, Lời về Thiên Chúa, NXB Hồng Đức, Hà Nội, 2022, tập 3, trang 343-344.