Đàm đạo về “Summa Contra Gentiles” của thánh Tôma Aquinô - Kỳ XX
Đàm đạo về “Summa Contra Gentiles”
của thánh Tôma Aquinô
(1225-1274)
*****
Mục 16. Mầu nhiệm Nhập thể (phần 1)
Trong mục vừa rồi, thánh Tôma bàn về đời sống nội tại của Thiên Chúa khi tìm hiểu mầu nhiệm một Thiên Chúa Ba Ngôi. Từ mục này, tác giả bước sang “công trình cứu độ nhân loại” của Thiên Chúa qua việc Con Thiên Chúa làm người (mầu nhiệm Nhập thể) và kéo dài qua các Bí tích.
Mục bàn về mầu nhiệm Nhập thể khá dài (từ chương 27 đến chương 55, nghĩa là 28 chương, so với 26 chương của mục trước). Sau khi ôn lại nội dung đức tin về mầu nhiệm (chương 27), tác giả cho thấy các lạc thuyết đã xảy ra trong lịch sử (chương 28-38); tiếp theo tác giả đào sâu nội dung đức tin và trả lời các vấn nạn (chương 39-49); những chương cuối cùng bàn về tội nguyên tổ và những hệ lụy của nó.
I. Đức tin Công giáo
Đức tin Công giáo tuyên xưng rằng Lời Thiên Chúa, Con Thiên Chúa đã làm người.
Chân lý này dựa trên mặc khải được ghi lại trong Kinh Thánh: “Lời Thiên Chúa trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). “Đức Kitô, dẫu là bản tính Thiên Chúa ... đã tự hủy, chấp nhận thân phận tôi tớ và trở nên giống người thế” (Pl 2,6.7).
Tin Mừng cũng ghi lại chính những lời tuyên bố của Đức Kitô. Có lúc Người nói về bản thân với những lời khiêm tốn, tựa như “Cha thì lớn hơn tôi” (Ga 14,28); “Linh hồn tôi buồn rầu đến chết đi được” (Mt 26,38). Có lúc Người gán cho mình những đặc tính thuộc về Thiên tính: “Tôi và Cha là một” (Ga 10,30); “Tất cả những gì thuộc về Cha cũng là của tôi” (Ga 16, 14).
Chân lý về việc Nhập thể cũng được tỏ lộ qua những sự kiện trong cuộc đời Đức Giêsu: có lúc Người sợ hãi, buồn rầu, đói khát, mệt nhọc và chết; có khi Người chữa bệnh, trừ quỷ, cho người chết sống lại, dẹp yên bão tố, tha tội, phục sinh và lên trời.
Như vậy mặc khải nói rõ về nhân tính và Thiên tính của Đức Kitô. Tuy vậy, chung quanh chân lý này đã nổi lên nhiều lạc thuyết.
II. Những lạc thuyết
Thánh Tôma kể ra gần 10 điều sai lầm, có khi liên quan đến Thiên tính của Đức Giêsu, có khi liên quan đến nhân tính (thân xác hoặc linh hồn) của Đức Giêsu, có khi liên quan đến sự kết hiệp giữa hai bản tính.
1/ Ông Phôtinô
Cũng như các ông Ebiô, Cêrintô, Phaolô Samosata, ông Phôtinô (thế kỷ II) chỉ chấp nhận nhân tính của Đức Kitô mà thôi, và họ cho rằng Người được chia sẻ phần nào vào vinh quang Thiên Chúa nhờ công trạng của mình, chứ không có Thiên tính. Nói cách khác, họ đảo ngược câu nói của Tin Mừng: thay vì “Lời đã trở thành con người” (Ga 1,14) thì họ đổi thành “Con người đã trở thành Lời”. Một cách tương tự như vậy, không phải là Con Thiên Chúa xuống trần, cho bằng con người được tôn vinh.
2/ Phái Manikê
Theo nhóm này, Lời Thiên Chúa đã không nhận lãnh một thân xác thực sự mà chỉ là một thân xác ảo. Những gì Kinh Thánh nói về Đức Giêsu thực hiện như là con người (sinh ra, ăn uống, ngủ nghỉ, đi lại, chết, vv) đều là hư ảo.
Họ trưng dẫn vài đoạn Kinh Thánh để bênh vực lập trường của mình, tựa như thánh Phaolô nói rằng “Thiên Chúa sai Con mình đến mang thân xác giống như thân xác chúng ta (x. Rm 8,3), hoặc Đức Kitô xuất hiện dưới hình dáng con người (Pl 2,7).
3/ Ông Valentinô (thế kỷ II)
Cũng như phái Manikê, ông Valentinô coi rằng thân xác hoặc vật chất là xấu xa do ma quỷ làm ra, cho nên Đức Giêsu không có thân xác thật sinh bởi Đức Maria, mà chỉ có thân xác mang từ trời xuống. Người chỉ đi ngang qua đức Trinh nữ Maria như nước chảy ngang kênh đào. Nói cách khác, Đức Giêsu chỉ mang dáng vẻ con người chứ không phải là người.
4/ Ông Apôllinariô (k.310-k.390)
Ông cho rằng không phải là Lời Thiên Chúa làm người (x. Ga 1,14), mà là chính Lời đã biến đổi thành xác phàm. Hiểu như vậy, Lời Thiên Chúa không còn tồn tại nơi Đức Giêsu nữa. Cuối cùng Đức Giêsu cũng chẳng phải là người thật nữa, mà chỉ có dáng vẻ con người.
5/ Ông Ariô và ông Apôllinariô
Những thuyết nói trên có quan niệm sai lầm về thân xác Đức Kitô, còn những thuyết sau đây sai lầm về linh hồn của Đức Kitô. Ông Ariô cho rằng Đức Kitô không có linh hồn, bởi vì theo ông, Thiên tính giữ vai trò của linh hồn. Ông dựa trên câu văn của thánh Gioan 1,14 “Lời đã mặc lấy thân xác” để kết luận rằng Lời chỉ kết hợp với thân xác. Về sau, ông Apôllinariô cũng theo chủ trương như vậy.
Ông Ôrigène (k.185-k.254) có quan niệm khác về linh hồn của Đức Kitô. Theo ông, linh hồn của Người đã hiện hữu từ muôn thuở và đã được kết hợp với Lời, rồi sau đó mới xuống thai trong lòng Trinh nữ Maria.
6/ Ông Têôđôrô Mopsuestia (k.350-428) và Nestôriô (sau 351- k.452)
Những thuyết trên đây mắc những sai lầm về thân xác hoặc về linh hồn Đức Kitô. Những thuyết sau đây phạm sai lầm về sự kết hợp giữa Lời và con người. Têôđorô và môn sinh là Nestoriô cho rằng Đức Kitô có linh hồn và thân xác giống như bao nhiêu con người khác. Lời đến ngự trong con người ấy như là trong đền thờ, nghĩa là nhờ ân sủng, cũng như trong tâm hồn các vị thánh khác. Đáp lại, con người Đức Giêsu gắn bó hết tình với Thiên Chúa, nên được Ngài yêu thích đặc biệt, và đã tặng ban các danh hiệu “Con Thiên Chúa, Thiên Chúa, Kitô, Chúa”. Nhờ hồng ân đặc biệt đó mà Đức Kitô trở nên Lời Thiên Chúa, được nên một với Ngài, cũng tựa như hai vợ chồng kết hợp với nhau nên một thân xác. Tuy nhiên, ta không nên gán cho Đức Kitô những gì là đặc trưng của Lời, và ngược lại, những gì thuộc về Đức Kitô (sinh bởi Đức Trinh nữ, chịu khổ hình, chịu chết và mai táng) thì không được gán cho Thiên Chúa hoặc cho Lời. Bởi vậy, Đức Maria là Mẹ Đức Kitô chứ không phải là Mẹ Thiên Chúa.
7/ Ông Eutikê
Trong khi mà Nestôriô không chấp nhận cho Đức Kitô có ngôi vị Thiên Chúa (vì thế không thể gọi là Thiên Chúa), thì Eutikê chủ trương rằng do việc kết hiệp giữa Thiên tính và nhân tính nơi Đức Kitô thì chỉ còn lại Thiên tính chứ nhân tính đã bị tan rã. Học thuyết của ông đã bị công đồng Calxêđônia luận phi. Công đồng tuyên bố rằng Đức Kitô là một ngôi vị Thiên Chúa ở trong hai bản tính: bản tính con người vẫn tồn tại, với trọn linh hồn và thân xác. Đức Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật. Người hoàn toàn trở nên giống như chúng ta ngoại trừ tội lỗi (Hr 2,17).
8/ Ông Macariô Antiôkia (thế kỷ VII)
Ông chủ trương rằng nơi Đức Kitô chỉ có một ý muốn và một hoạt động. Đức Kitô chỉ có ý muốn của Thiên Chúa, chứ không có ý muốn của con người. Xem ra ông Macariô đi đến kết luận như vậy bởi vì ông cho rằng ý muốn con người của Đức Kitô hoàn toàn suy phục ý muốn của Thiên Chúa, cho nên ông đã gạt bỏ ý muốn cũng như hoạt động con người nơi Người.
9/ Những sai lầm khác liên quan đến sự kết hiệp giữa linh hồn và thân xác nơi Đức Kitô
Ở chương 37-38, thánh Tôma kể thêm những sai lầm khác liên quan đến sự kết hợp giữa linh hồn và thân xác nơi Đức Kitô, nghĩa là trong quan niệm về nhân tính của Người mà thôi.
- Chẳng hạn như Abêlarđô, vì không muốn chấp nhận một ngôi vị nào khác với ngôi vị Thiên Chúa nơi Đức Kitô, cho nên chủ trương rằng linh hồn và thân xác của Người không hợp thành một bản thể. Lời Thiên Chúa đã nhận lấy linh hồn và thân xác Đức Kitô một cách phụ thể, giống như con người khoác chiếc áo choàng lên thân. Tuy nhiên, nếu nói như vậy thì Đức Kitô không phải là con người thật!
- Ngược lại, có ý kiến cho rằng nơi Đức Giêsu, hồn và xác hợp thành một bản thể, nghĩa là một cá thể con người; như vậy nơi Người có hai cá thể trong một ngôi vị. Thế nhưng, nếu xét kỹ thì ý kiến này sẽ dẫn tới hệ luận là nơi Đức Giêsu có hai ngôi vị, bởi vì theo định nghĩa của ông Boêxiô, ngôi vị chính là “một cá vị của loài thụ tạo có lý trí”.
III. Đức tin Công giáo về việc Nhập thể: những thắc mắc
Sau khi đã ôn lại những học thuyết sai lầm về bản tính Đức Kitô, thánh Tôma trình bày đạo lý đức tin và dùng lý trí để đào sâu thêm những điểm liên quan đến cuộc Nhập thể.
Đức tin tuyên xưng rằng Đức Kitô có hai bản tính: Thiên tính và nhân tính; Người là Thiên Chúa thật và là người thật. Là người thật có nghĩa là có linh hồn và thân xác. Hai bản tính kết hiệp với nhau, không phải theo kiểu là Lời ngự trong linh hồn, cũng không phải là kết hiệp theo phụ thể, nhưng là kết hiệp trong ngôi vị của Lời.
Do sự kết hiệp này, Kinh Thánh áp dụng cho con người Đức Giêsu những đặc điểm của Thiên Chúa và cho Thiên Chúa những đặc điểm của con người; vì thế không lạ gì mà ta nhận thấy nơi Người những đặc điểm trái ngược nhau, chẳng hạn như “đau khổ” và “không thể chịu đau khổ”, hoặc “chết” và “bất tử”. Thực ra, không có gì khó hiểu: Đức Kitô chịu đau khổ xét theo bản tính con người, nhưng không thể chịu đau khổ xét theo bản tính Thiên Chúa. Nơi Đức Kitô, hai bản tính kết hiệp với nhau trong một ngôi vị, nghĩa là một chủ thể duy nhất, chứ không trà trộn với nhau.
Cần nhắc lại vài khái niệm khi đối chiếu mầu nhiệm Tam Vị và mầu nhiệm Nhập Thể. Trong mầu nhiệm Tam vị, có ba ngôi vị biệt lập nhưng có chung một bản tính; còn trong mầu nhiệm Nhập thể, có hai bản tính khác biệt trong một ngôi vị.
Sau khi đã trình bày đức tin về mầu nhiệm Nhập Thể, thánh Tôma giải đáp các thắc mắc hoặc vấn nạn được nêu lên.
Thắc mắc như thế nào?
Có ít là bốn vấn nạn như sau:
- Nếu Lời Chúa trở nên xác phàm thì sau khi Nhập Thể, Lời sẽ biến đổi thành thân xác. Như vậy, không thể nào Thiên Chúa nhập thể được.
- Nếu do việc nhập thể, ngôi vị Thiên Chúa trở thành một ngôi vị con người, thì sau khi Nhập thể, Con Thiên Chúa không còn hiện diện khắp nơi nữa, bởi bản tính con người không thể nào hiện diện khắp nơi được.
- Nơi con người, linh hồn và thân xác kết hiệp thành một ngôi vị. Nếu Đức Kitô có linh hồn và thân xác thì sẽ có một ngôi vị. Như vậy Đức Kitô có hai ngôi vị: ngôi vị hằng hữu của Thiên Chúa và ngôi vị con người.
- Những gì xảy đến cho một hữu thể đã hoàn bị thì đều là phụ thể. Thế mà Lời Thiên Chúa đã hiện hữu từ nguyên thủy rồi, vì thế thân xác mà Người nhận lấy chỉ là phụ thể.
Thánh Tôma trả lời thế nào?
Trước những thắc mắc, vấn nạn (và có khi là lạc giáo) nảy lên chung quanh việc Nhập thể, thần học đã phải sử dụng các phạm trù triết học tựa như là “bản tính” (natura), “ngôi vị” (persona) để giải thích.
Như đã nói trên đây, Đức Kitô có một ngôi vị trong hai bản tính. Nơi Đức Kitô, hai bản tính vẫn duy trì những đặc điểm riêng của mình. Nói rằng Đức Kitô có trọn vẹn bản tính con người, nghĩa là Người có linh hồn và thân xác như bao nhiêu con người khác. Sự kết hiệp diễn ra ở ngôi vị, chứ không phải ở bản tính. Ngôi Lời nhận lấy bản tính con người, nghĩa là cả hồn và xác, và trở nên một con người thực sự; đồng thời Ngôi Lời cũng làm cho con người ấy trở nên Thiên Chúa.
Để hiểu được đôi chút về sự kết hợp này, chúng ta hãy lấy một thí dụ minh họa. Nơi con người, linh hồn và thân xác khác nhau về bản chất, bởi vì một bên thì thiêng liêng còn một bên là vật chất. Thế mà cả hai yếu tố ấy họp thành một chủ thể, mỗi bên duy trì đặc tính của mình. Tuy vậy hai yếu tố không đứng rời rạc nhưng kết hiệp với nhau. Có thể nói được là thân xác trở nên dụng cụ cho linh hồn, nhưng là dụng cụ nội tại (tựa như cái tay trong thân thể), chứ không phải là dụng cụ bên ngoài (tựa như tay cầm cái búa). Có thể ví nhân tính của Đức Kitô như là dụng cụ cho Thiên tính hoạt động: nhân tính là dụng cụ nội tại để Thiên Chúa hoạt động, tựa như ban ân sủng, tha thứ tội lỗi.
Tại sao Ngôi Lời nhập thể, kết hiệp với một con người, chứ không phải là Ngôi Cha hoặc Thánh Linh?
Trong lãnh vực mặc khải, chúng ta chỉ có thể đưa ra những lý lẽ thích hợp theo sự suy nghĩ của trí tuệ con người, chứ không dám nói rằng đó là lý do tất yếu. Việc nhập thể thích hợp với Ngôi Lời vì hai lý do.
1/ Thứ nhất, việc nhập thể nhằm cứu độ con người, và sự cứu độ hệ tại chiêm ngưỡng Chân lý đệ nhất, cho nên quả là thích hợp khi bản tính con người được đón nhận bởi Lời phát xuất từ Cha theo đường trí tuệ.
2/ Thứ hai, có sự tương đồng giữa Ngôi Lời và bản tính con người. Con người là hữu thể có lý trí. Thế nhưng Logos trong tiếng Hy-lạp vừa có nghĩa là “lời” vừa có nghĩa là “lý” nữa. Không lạ gì mà Kinh Thánh gọi Đức Kitô là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” (Cl 1,15), cũng như con người là “hình ảnh của Thiên Chúa (St 1,27; x. 1 Cr 11,7).
Bản tính con người mà Ngôi Lời lãnh nhận được tạo dựng từ lúc nào?
Ngôi Lời kết hiệp với bản tính con người thành một chủ thể; vì thế bản tính ấy được tạo dựng từ khi Nhập thể, chứ không phải trước đó. Lý do là vì giả như đã có một con người hiện hữu trước lúc Nhập thể, thì con người ấy là hoàn bị rồi, tức là đã là một ngôi vị rồi, thì Đức Kitô sẽ có hai ngôi vị: ngôi vị con người và ngôi vị Thiên Chúa. Vì thế Ngôi Lời kết hiệp với bản tính con người được thành hình trong lòng Đức Trinh nữ Maria, chứ không thể trước đó.
Bản tính con người đã hoàn bị ngay từ lúc thành hình trong lòng Đức Trinh nữ Maria chưa?
Nếu hiểu rằng bản tính hoàn bị theo nghĩa là được cấu thành bởi linh hồn và thân xác, thì phải trả lời là đã hoàn bị rồi: Ngôi Lời kết hiệp với cả linh hồn và thân xác của Đức Giêsu. Nhưng chúng ta không hiểu hoàn bị theo nghĩa là con người Đức Giêsu đã trưởng thành về mọi khía cạnh nhân bản; thực vậy, dưới phương diện nhân bản, Tin Mừng Luca ghi nhận có sự tăng trưởng nơi Đức Giêsu (Lc 2,52).
Tại sao Đức Kitô sinh ra bởi một người trinh nữ, không có sự cộng tác của nam giới?
Một lần nữa, chúng ta chỉ dám đưa ra lý lẽ thích hợp chứ không phải là lý do tất yếu. Đức Giêsu là một con người nhưng đồng thời cũng là Con Thiên Chúa. Việc Đức Giêsu được sinh ra mà không có sự hợp tác của một người cha nhân loại làm nổi bật Người là Con Thiên Chúa, nghĩa là Thiên Chúa là Cha của Người. Thực vậy, trong Tin Mừng Luca, khi tìm được cậu bé Giêsu trong đền thờ, bà mẹ vồn vã hỏi: “Tại sao con lại làm như vậy? Này cha và mẹ đã phải cực lòng tìm con!” Người đáp lại: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết rằng con có bổn phận ở nhà Cha con sao?” (Lc 2,48-49). Qua câu trả lời, Đức Giêsu muốn tỏ thấy ai thật sự là Cha của mình.
Nhưng mà con người thật sự được thành hình do sự kết hợp giữa người nam và người nữ; nếu thiếu một yếu tố thì đâu thành con người được? Một con người được sinh ra như vậy đâu có thuộc về dòng dõi loài người?
Thánh Tôma trả lời rằng vấn nạn này không đứng vững, bởi vì con người đầu tiên là ông Ađam được thành hình mà đâu cần đến sự hợp tác giữa yếu tố nam và yếu tố nữ. Dù sao Đức Giêsu thực sự thuộc dòng dõi loài người bởi được sinh ra từ một bà mẹ nhân loại, tuy cần có sự can thiệp đặc biệt của Thánh Linh như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin kính dựa theo Mt 1,18 và Lc 1,35.
Tại sao Thánh Linh phải can thiệp vào đây? Thánh Linh có phải là cha của Đức Giêsu không?
Không phải. Tất cả các công trình mà Thiên Chúa thực hiện ra bên ngoài đều chung cho cả Ba Ngôi; tuy vậy, một vài công việc được gán cho Cha, một số công việc được gán cho Con, và một số công việc được gán cho Thánh Linh. Công việc Đức Maria thụ thai Đức Kitô được gán cho Thánh Linh hình như bởi vì muốn nêu bật khía cạnh tình yêu của công trình Nhập thể, nhằm cứu chuộc nhân loại. Thánh Linh vốn được trình bày như là biểu tượng của tình yêu giữa Cha và Con. Mặt khác, Thánh Linh đã can thiệp vào việc tạo dựng vũ trụ qua việc trao sinh khí cho muôn vật, thì chính Thánh Linh cũng can thiệp vào việc tái tạo nhân loại vào đời sống mới. Dù sao, không thể nói Thánh Linh là cha nhân loại của Đức Giêsu, bởi vì Ngài không làm ra nhân tính của con người Giêsu.