Đàm đạo về “Summa Contra Gentiles” của thánh Tôma Aquinô - Kỳ XVIII
Đàm đạo về “Summa Contra Gentiles”
của thánh Tôma Aquinô
(1225-1274)
*****
Kỳ XVIII
QUYỂN BỐN
Như chúng ta đã biết, tác phẩm Summa contra gentiles tuy được chia thành bốn quyển, nhưng kỳ thực có thể được phân làm hai phần chính: trong phần thứ nhất (gồm ba quyển đầu), thánh Tôma trình bày những chân lý liên quan đến Thiên Chúa mà lý trí có thể khám phá được; phần thứ hai (đối tượng của quyển Bốn) bao gồm những chân lý vượt quá lý trí con người. Con người có thể tìm hiểu các chân lý này nhưng cần khởi đi từ mặc khải của Thiên Chúa, được đón nhận bằng đức tin.
Tại sao phải khởi đi từ đức tin?
Bởi vì nếu không được Thiên Chúa mặc khải thì lý trí không thể biết được những chân lý ấy. Thánh Tôma lý luận như sau: Tri thức của lý trí khởi đầu từ những vật khả giác; vì thế lý trí không thể nào hiểu biết bản tính của Thiên Chúa. Điều này chỉ có thể diễn ra do ơn huệ của Thiên Chúa, nâng lý trí vươn lên trên các sự vật khả giác.
Biết được bản tính Thiên Chúa thì có lợi ích gì không?
Có chứ sao không! Vấn đề không chỉ nằm ở chỗ trí tuệ con người muốn hiểu biết tường tận mọi vật, nhưng nhất là vì Thiên Chúa đã mời gọi con người đến kết hiệp với Ngài. Đó chính là hạnh phúc đích thực của con người; nhưng điều này chỉ thành tựu ở bên kia thế giới, còn bây giờ chúng ta chỉ mới biết lờ mờ nhờ đức tin. Để hiểu rõ hơn, chúng ta nên phân biệt ba cấp độ hiểu biết. Thứ nhất, bình thường chúng ta biết được chân lý khởi đi từ các thực thể khả giác; ở cấp này, chúng ta chỉ có thể biết được Thiên Chúa như nguồn gốc sự hiện hữu của mọi vật, chứ chưa thể biết về bản tính của Ngài. Đó là điều mà chúng ta đã khảo sát trong ba quyển đầu của tác phẩm này. Lên một cấp cao hơn, Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta bản tính của Ngài, là một điều vượt quá khả năng của con người; chúng ta chỉ biết đón nhận nhờ đức tin. Ở cấp thứ ba, khi trí tuệ chúng ta được chiêm ngắm bản tính Thiên Chúa trên trời. Hiện nay, trên đời này, chúng ta còn ở cấp thứ hai, đó là biết Thiên Chúa qua mặc khải của Kinh Thánh.
Trong quyển Bốn này, thánh Tôma sẽ đề cập những vấn đề gì?
Quyển bốn gồm 97 chương, và gồm ba đề tài chính như sau: 1/ Đức tin vào mầu nhiệm Thiên Chúa nhất thể tam vị (các chương 2-26). 2/ Những công trình mà Thiên Chúa đã thực hiện để cứu độ chúng ta, trước là cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời (các chương 27-55), rồi đến các Bí tích (các chương 56-78). 3/ Những thực tại cánh chung: sự phục sinh thân xác (các chương 79-90), hạnh phúc bất diệt (các chương 91-97).
Chúng tôi sẽ dành một mục cho mỗi đề tài vừa kể, nhưng đề tài thứ hai sẽ được tách làm đôi. Nên biết là khi bàn đến các chân lý vượt quá tầm lý trí, thì thánh Tôma không nhằm chứng minh sự hợp lý của chúng, mà chỉ cố gắng vạch ra những lý lẽ “thích hợp” (ratio convenientiae) trong kế hoạch của Thiên Chúa.
Mục 15. Mầu nhiệm Nhất Thể Tam Vị (phần 1)
Trong mục này, thánh Tôma trình bày những vấn đề liên quan đến Chúa Con (chương 2-14) và Thánh Linh (chương 15-25), và kết thúc việc tuyên xưng đức tin về một Thiên Chúa trong ba ngôi vị (chương 26).
I. Con Thiên Chúa
-- -- A. Đức tin Kitô giáo
Đức tin Kitô giáo tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa. Chân lý này được gặp thấy nhiều lần trong Tân ước.
Đức Giêsu nói rằng: “Không ai biết Con ngoại trừ Cha, và không ai biết Cha ngoại trừ Con” (Mt 11,27). Thánh Marcô bắt đầu sách Tin Mừng như sau: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (Mc 1,1). Trong Tin Mừng Gioan, chúng ta đọc thấy: “Cha yêu Con và trao mọi sự cho Người” (Ga 3,35) hoặc: “Cũng như Cha làm cho kẻ chết sống lại thế nào, thì Con cũng ban sự sống cho ai Người muốn” (Ga 5,21). Thánh Phaolô cũng nhiều lần khẳng định như vậy. Mở đầu thư gửi Rôma, ông viết rằng mình “được tuyển chọn để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa, đã được hứa nhờ các ngôn sứ trong Kinh Thánh, liên quan đến Con của ngài” (1,1-3). Tác giả của thư gửi Híp-ri mở đầu như sau: “Thuở xưa Thiên Chúa đã phán dạy nhiều lần nhiều cách nhờ các ngôn sứ, sau cùng, vào những ngày này, Ngài đã nói với chúng ta nhờ Con ... nhờ Người mà Thiên Chúa đã tạo nên thế giới” (Hr 1,1-2).
Đạo lý cũng được gặp thấy trong Cựu Ước, tuy không rõ ràng như vậy, chẳng hạn như: “Người đã nói với tôi: Ngươi là con của Ta, ngày hôm nay Ta đã sinh ra ngươi” (Tv 2,7). “Người sẽ kêu cầu Ta: Ngài là cha của con” (Tv 89,27). Thánh Tôma nói rằng: Mặc dù có những người giải thích hai câu vừa trích dẫn và gán câu thứ nhất cho Salômôn và câu thứ hai cho Đavit, nhưng mạch văn cho thấy rằng hai câu ấy không thể hiểu về Đavit và Salômôn. Thực vậy không thể nào áp dụng cho vua Đavit câu nói “Ngày hôm nay Ta đã sinh ra con” cũng như câu kế tiếp: “Con cứ xin và Ta sẽ ban tặng muôn dân nước là sản nghiệp riêng và thống trị khắp cõi đất” (Tv 2,8) bởi vì vương quốc của Đavit không lan rộng khắp hoàn cầu. Đavit và Salômôn chỉ là hình bóng của một người khác, nơi mà các lời tiên báo sẽ được hoàn tất.
Tuy nhiên bởi vì các danh xưng Cha và Con bắt nguồn từ một sự sinh ra, cho nên Kinh Thánh đã đề cập đến sự “sinh ra” nơi Thiên Chúa. Thật vậy, trong Thánh Vịnh, ta đọc thấy câu: “Ngày hôm nay Ta đã sinh ra con” (Tv 2,7). Thế nhưng nếu Thiên Chúa ban cho những người khác khả năng sinh sản, thì chính Ngài không thể nào lại vô sinh. Và nếu Ngài đã ban cho những người khác khả năng sinh sản thực sự thì không lẽ Ngài chỉ sinh theo nghĩa bóng, bởi vì một sự hoàn hảo sẽ được gặp thấy ở nơi nguyên nhân hơn là ở nơi kết quả. Trong Ga 1,18: “Con Một ở trong cung lòng của Cha”. Trong thư gửi Híp-ri ta đọc thấy rằng “ Thiên Chúa đưa trưởng tử của mình vào thế giới” (1,6).
Con của Thiên Chúa là ai vậy?
Con của Thiên Chúa là Thiên Chúa, cũng như con của mèo là mèo, và con của ngựa là ngựa. Tuy nhiên, nên lưu ý rằng Kinh Thánh dùng danh từ “cha” và “con” để ám chỉ việc làm ra sự vật, chẳng hạn trong sách Gióp có câu (38,29): “Băng đá phát sinh từ bụng dạ nào? Sương muối trên trời, ai đã sinh ra?”. Để tránh cho các từ ngữ “cha, con, sinh ra” không chỉ được hiểu về hiệu quả của sự sinh sản mà thôi, các bản văn Kinh Thánh đã thêm ngay “Thiên Chúa” vào danh từ “Con” để tránh hiểu lầm rằng sự sinh ra ở đây là một sự tạo thành. Thật vậy, Tin Mừng Gioan viết rằng: “Vào khởi thủy đã có Lời, và Lời ở bên Thiên Chúa và Lời là Thiên Chúa” (Ga 1,1). Lời và Con cũng là một, như chúng ta đọc thấy: “Lời đã trở nên người phàm và ở giữa chúng ta. Chúng tôi đã thấy vinh quang của Người, vinh quang thuộc về Con một của Cha” (1,14). Vì thế Kinh Thánh dạy rằng Con Thiên Chúa, sinh bởi Thiên Chúa, là Thiên Chúa. Đàng khác, ông Phêrô đã tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa khi nói rằng: “Thầy là Đấng Kitô, Con của Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Như vậy, Đức Giêsu Kitô là Con Một của Thiên Chúa, là chính Thiên Chúa.
Nhưng mà trong Kinh Thánh, đâu phải lúc nào thuật ngữ “con Thiên Chúa” cũng được hiểu là Thiên Chúa?
Đúng thế. Kinh Thánh cũng áp dụng thuật ngữ “con Thiên Chúa” cho những người được trở nên công chính nhờ ân sủng, chẳng hạn như: “Người (Lời) đã ban cho những ai tin vào danh của Người được trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,12). “Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là những người con Thiên Chúa” (Rm 8,16). “Tình yêu của Thiên Chúa đã ban cho chúng ta thật lớn lao chừng nào, vì chúng ta được gọi là những người con Thiên Chúa, và thực sự là như thế” (1 Ga 3,1). Thậm chí, Kinh Thánh cũng nói rằng chúng ta được sinh bởi Thiên Chúa: “Ngài đã dùng lời chân lý mà sinh ra chúng ta” (Gc 1,18). Thậm chí có chỗ gọi những người con của Thiên Chúa được coi là “thần linh”: “Tôi đã nói: các ngươi là thần linh, tất cả các ngươi là con của Đấng Tối cao” (Tv 82,6). Điều này Chúa Giêsu xác nhận trong Tin Mừng: “Trong Lề luật của các ông đã chẳng có viết: Tôi đã nói rằng các ngươi là thần linh đó sao?” (Ga 10,34).
Chính vì dựa vào những đoạn văn như thế mà những nhóm lạc giáo chủ trương rằng Đức Kitô là một con người bình thường, bắt đầu hiện hữu nhờ Đức Trinh nữ Maria, là con Thiên Chúa nhờ ơn làm nghĩa tử giống như bao người khác, được Thiên Chúa sinh ra nhờ ân sủng. Bởi vậy Đức Giêsu được gọi là con Thiên Chúa vì được thông phần bản tính Thiên Chúa một cách nào đó” (x. 2 Pr 1,4). Tóm lại, Đức Kitô là con Thiên Chúa do dưỡng hệ cũng như chúng ta.
Ai đã chủ trương như vậy?
Thánh Tôma đã kể ra các ông Cêrintô (+k.160), Ebiô (đầu thế kỷ II), Phaolô Samosata (thế kỷ III), và đặc biệt là Phôtinô (k.300-376). Ông trưng dẫn vài đoạn văn cũng như sự kiện trong Kinh Thánh để biện hộ cho lập trường của mình.
-- -- B. Những lạc thuyết
-- -- -- -1/ Phôtinô
Những đoạn văn nào?
Bốn đoạn văn chính được họ trưng dẫn là: 1/ “Mọi quyền bính trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy” (Mt 28,18). Nếu Đức Giêsu là Thiên Chúa từ nguyên thủy thì ắt hẳn là Người đã không lãnh nhận vào lúc nào đó trong thời gian. 2/ Thánh Phaolô viết rằng: “Đức Giêsu Kitô được đặt làm Con Thiên Chúa với quyền năng theo Thần Khí thánh hóa...” (Rm 1,4). Nếu được “đặt lên” thì ắt là đã không có từ muôn thuở. 3/ “Đức Kitô đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá. Vì thế Thiên Chúa đã suy tôn Người và đã tặng ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu” (Pl 2,8-9). Như vậy là Người đã lãnh được vinh dự nhờ công trạng của việc vâng phục và tử nạn. 4/ Thánh Phêrô nói: “Toàn thể nhà Israel hãy biết cho rằng Thiên Chúa đã đặt làm Chúa và Đức Giêsu mà các ông đã đóng đinh!” (Cv 2,36).
Còn các sự kiện thì sao?
Đó là những sự kiện mà Kinh Thánh nói về các khuyết điểm của Đức Kitô, chẳng hạn như: được thụ thai trong lòng một phụ nữ; lớn lên theo tuổi; đau khổ vì đói khát, mệt nhọc và chịu chết; tăng trưởng về kiến thức; tuyên bố là không biết ngày phán xét; lo sợ khi đối diện với cái chết, vân vân... Từ đó họ kết luận rằng Đức Giêsu không phải là Thiên Chúa theo bản tính, nhưng đã lãnh nhận danh dự thần linh nhờ ân sủng.
Chúng ta phải trả lời như thế nào?
Nếu khảo sát Kinh Thánh cách kỹ lưỡng, ta sẽ thấy các đoạn văn mà họ trưng dẫn để chứng minh rằng Đức Kitô không phải là Thiên Chúa theo bản tính thì không có ý nghĩa như là họ nghĩ. Bởi vì chúng ta tuyên xưng rằng Đức Kitô Con Thiên Chúa, sau mầu nhiệm Nhập thể, có hai bản tính, đó là bản tính Thiên Chúa và bản tính con người. Vì thế nơi Đức Kitô có những ưu phẩm thuộc về Thiên Chúa bởi vì Người có thiên tính, và những khiếm khuyết là thuộc về nhân tính. Đức Kitô là Thiên Chúa bởi vì Người có thiên tính, và là người bởi vì đã nhận lấy nhân tính.
Họ trưng dẫn bốn đoạn văn để bênh vực ý kiến của mình, nhưng họ lại bỏ qua biết bao nhiêu đoạn khác trong Tân ước khẳng định Thiên tính của Đức Kitô. Thánh Gioan viết rằng “Lúc khởi nguyên đã có Lời” (Ga 1,1), “muôn vật nhờ Người mà được tạo thành, và không có Người thì chẳng gì hiện hữu được làm ra” (1,3). Những điều này cho thấy Đức Kitô đã hiện hữu trước vũ trụ. Ngoài ra Đức Giêsu đã tuyên bố rằng Người “từ trời mà xuống” (Ga 6,38), tức là đã hiện hữu trước khi xuống trần. Thánh Phaolô nói rằng Đức Giêsu “tuy mang bản tính Thiên Chúa, như không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7). Ngoài ra, Đức Giêsu được gọi là Con Một của Chúa Cha (Ga 1,14.18). Nếu Người chỉ là con Thiên Chúa giống như chúng ta thì làm sao mà nói được là “Con Một”. Đôi khi Đức Giêsu được gọi là “Trưởng tử” để cho thấy rằng những người khác nhận được điều kiện làm những người con của Thiên Chúa là nhờ Người: “Những ai Thiên Chúa đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài, để Con của Ngài làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,29). “Khi thời gian đã đến hồi viên mãn. Thiên Chúa đã sai Con của Ngài, sinh bởi đàn bà ... ngõ hàu chúng ta nhận được quyền nghĩa tử” (Gl 4,4). Như vậy đã rõ là Đức Giêsu là Con Thiên Chúa do một lý do độc nhất; những người khác được mang danh là con bởi vì giống như Người.
Trong Kinh Thánh có những điều gán cho Thiên Chúa mà không thể gán cho người nào khác, tựa như sự thánh hóa các linh hồn và sự thứ tha tội lỗi (x. Lv 20,8; Is 43,25). Thế mà Kinh Thánh lại gán cả hai điều cho Đức Kitô. Người nói với kẻ bại liệt: “Tội con đã được tha thứ” (Mt 9,2), và củng cố lời nói của mình bằng phép lạ chữa lành. “Để thánh hóa toàn dân bằng máu của mình, Người đã chịu khổ hình bên ngoài cửa thành” (Hr 13,12). Vì thế Đức Kitô, kẻ thánh hóa và tha thứ tội lỗi, được gọi là Thiên Chúa, không phải như là những người được thánh hóa và tha thứ tội lỗi, nhưng như là kẻ có quyền năng và bản tính Thiên Chúa.
-- -- -- -2/ Sabelliô
Trên đây, chúng ta đã điểm qua học thuyết Phôtinô không coi Đức Kitô là Thiên Chúa. Bây giờ chúng ta tìm hiểu một học thuyết trái ngược, khi đề cao Thiên tính của Đức Kitô đến nỗi đồng hóa Người với Chúa Cha. Đó là học thuyết của Sabelliô (thế kỷ III, qua đời trước năm 257).
Dựa vào đâu mà ông khẳng định như vậy?
Ông trưng dẫn những đoạn văn Kinh Thánh tựa như: “Ai đã thấy Thầy là thấy Cha. Cha ở trong Thầy là Đấng hoàn tất các công việc của Ngài. Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy” (Ga 14,9-11). Như vậy, Đức Kitô là Thiên Chúa theo bản tính và là một với Chúa Cha. Đức Kitô được gọi là Con Thiên Chúa để ám chỉ Chúa Cha khi trở thành con của Đức Trinh nữ Maria.
Như vậy có gì khác biệt giữa Cha và Con không?
Theo ông, chỉ có khác biệt về hình thái chứ không khác biệt về ngôi vị. Một vài người còn đi đến chỗ cực đoan khi cho rằng chính Chúa Cha thụ nạn trên thập giá (Pater passus, từ đó mang tên là thuyết: Patripassianismus). Kết luận này đi ngược với đức tin Kitô giáo, phân biệt Đức Kitô với Chúa Cha. Kinh Thánh nói rõ điều ấy, chẳng hạn khi Đức Giêsu tuyên bố: “Tôi từ trời xuống không phải để làm theo ý muốn của tôi, nhưng là ý muốn của Đấng đã sai tôi” (Ga 6,38). “Lạy Cha, xin hãy tôn vinh con bên Cha” (Ga 17,5). Mặt khác, Đức Giêsu không bao giờ tuyên bố mình là Cha, nhưng luôn nhận rằng mình là Con.
-- -- -- -3/ Ariô
Ông Ariô (k. 256-336) chấp nhận Con Thiên Chúa đã hiện hữu trước khi nhập thể và trước khi tạo dựng trời đất. Nhưng bởi vì Con khác với Cha cho nên không thể cùng bản tính với Cha được. Thế nhưng bởi vì bản tính của Cha là hằng hữu, cho nên bản tính của Con không thể hằng hữu, cho dù Con đã hiện hữu trước lúc tạo dựng trời đất. Xét vì những gì không hằng hữu thì chỉ là thụ tạo cho nên Con Thiên Chúa là một thụ tạo chứ không phải là Thiên Chúa, tuy Người vẫn đứng trên các thụ tạo khác.
Ông Ariô dựa vào đâu để khẳng định lập trường của mình?
Ông dựa vào các đoạn Kinh Thánh sau đây.
1/ Khi cầu nguyện với Cha, Đức Giêsu thưa rằng: “Sự sống đời đời hệ ở chỗ họ biết Cha là Thiên Chúa duy nhất chân thật” (Ga 17,3), nếu duy chỉ có Cha là Thiên Chúa thật, và Con thì khác với Cha cho nên Con không thể nào là Thiên Chúa thật được.
2/ Thánh Phaolô nói rằng sự tỏ hiện của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta “vào thời đã ấn định sẽ được mặc khải cho chúng ta bởi Đấng là Chúa tể vạn phúc vô song, là Vua các vua, Chúa các chúa. Chỉ mình Ngài là Đấng trường sinh bất tử, ngự trong ánh sáng siêu phàm” (1 Tm 6,14-16). Qua những lời này, rõ ràng là có sự phân biệt giữa “Chúa Cha tỏ hiện” và “Đức Kitô được tỏ hiện”. Duy chỉ Chúa Cha mới là Đấng bất tử và ngự trong ánh sáng siêu phàm. Do đó, Cha là Thiên Chúa thật; Con không được như vậy.
3/ Đức Giêsu tuyên bố: “Cha lớn hơn tôi” (Ga 14,28), và thánh Phaolô viết rằng Đức Kitô suy phục Cha: “Và khi mọi sự suy phục Người, thì cả Người, là Con, sẽ suy phục Đấng đã bắt mọi sự suy phục Người” (1 Cr 15,28). Nếu bản tính Cha và Con là một, thì sự uy nghi cao cả cũng là một; đàng này Sách Thánh nói rằng Cha lớn hơn Con; do đó Con không có cùng bản tính như Cha.
4/ Tin Mừng nói rằng Con nhận lãnh từ Cha, theo như lời Đức Giêsu đã nói: “Mọi sự đã được Cha trao ban cho tôi” (Mt 11,27); “Cha yêu mến Con và trao mọi sự cho Người” (Ga 3,35). Thế nhưng kẻ nào thiếu thì mới nhận lãnh; do đó, Con không thể cùng bản tính với Cha.
5/ Tin Mừng nói rằng Con được Cha chỉ dạy: “Con tự mình không thể làm được điều gì nếu không thấy Cha đã làm; điều gì Cha làm thì Con cũng làm” (Ga 5,19); “Những gì Thầy đã nghe từ Cha thì Thầy đã cho các con biết” (Ga 15,15); nếu như Con được Cha dạy dỗ thì không thể nào cùng một bản tính được.
6/ Nhận lệnh, vâng phục, cầu nguyện và được sai đi là những điều thuộc cấp dưới. Thế mà Đức Giêsu khẳng định cho mình những điều đó: “Tôi làm điều mà Cha đã truyền” (Ga 14,31). “Thầy sẽ cầu xin Cha và Ngài sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo trợ khác” (Ga 14,36). Thánh Phaolô viết rằng Đức Kitô vâng lời Cha cho đến chết và chết trên thập giá” (Pl 2,8), và “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con của Ngài đến” (Gl 4,4). Do đó Con thấp hơn Cha và tùng phục Ngài.
7/ Con được Cha tôn vinh và được Cha làm cho chỗi dậy: “Lạy Cha, xin tôn vinh con ở bên Cha” (Ga 17,5). Cha đã “làm cho Đức Giêsu chỗi dậy từ cõi chết” (Rm 8,11). Thánh Phêrô khẳng định rằng Đức Giêsu Kitô được “suy tôn lên bên hữu Thiên Chúa” (Cv 2,33). Như vậy chứng tỏ rằng Đức Giêsu ở dưới Cha.
8/ Nơi Cha không có giới hạn nào; trái lại, nơi Con có giới hạn về quyền hành bởi vì Người không thể cho Giacôbê và Gioan được ngồi bên tả và bên hữu mình; duy chỉ Cha mới có quyền ban điều đó (x. Mt 20,22). Nơi Đức Giêsu cũng có giới hạn về hiểu biết, vì Người nói rằng: “Về ngày và giờ ấy thì không ai biết, kể cả các thiên sứ trên trời và ngay cả Con, mà chỉ Cha biết được” (Mc 13,32). Đức Giêsu cũng yếu nhược về tinh thần, đã cảm thấy buồn phiền chán nản; vì thế Con không thể nào có cùng bản tính với Cha.
9/ Kinh Thánh nói rõ rằng Con Thiên Chúa là một thụ tạo. Thực vậy, Người là Đức Khôn ngoan trong Cựu Ứớc, và vị ấy đã tuyên bố: “Trước hết mọi thời gian, Thiên Chúa đã dựng nên tôi” (Hc 24,14). Vì thế Con là một thụ tạo.
Theo thánh Tôma, học thuyết này chịu ảnh hưởng của phái Platon. Họ chấp nhận một vị Chủ tể tối cao, cha và tạo dựng muôn vật; từ vị Chủ tể đó phát sinh một lý trí, trổi vượt trên hết mọi hữu thể khác, lý trí ấy trở thành hình thái của muôn vật. Những gì mà Kinh Thánh nói về Con Thiên Chúa thì họ áp dụng cho lý trí vừa nói.
Tại sao vậy?
Bởi vì Sách Thánh gọi Thiên Chúa là “Đức Khôn ngoan của Thiên Chúa” và “Lời của Thiên Chúa”. Họ hình dung rằng Con Thiên Chúa là một thụ tạo cao cấp ở trên tất cả các thụ tạo khác, nhờ Người mà Thiên Chúa dựng nên mọi sự. Đặc biệt vài triết gia nói rằng muôn vật phát xuất từ nguyên ủy đệ nhất theo thứ tự lớp lang: tất cả các thụ tạo được tạo dựng nhờ một thụ tạo thứ nhất.
Ta phải trả lời như thế nào cho thuyết của ông Ariô?
Thánh Tôma đã dành nhiều chương để phản bác học thuyết Ariô. Trước hết là bằng các bản văn Kinh Thánh.
- Kinh Thánh gọi “các con Thiên Chúa” cả Đức Kitô lẫn các thiên sứ, nhưng với những nghĩa khác nhau. Ta chỉ cần nhớ lại đoạn văn trong thư Hip-ri (1,5): “Có bao giờ Thiên Chúa phán cùng vị thiên sứ: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con?”. Đức Kitô là Con Thiên Chúa theo một cách thức độc nhất, còn phái Ariô coi Đức Kitô và các thiên sứ cũng là các con Thiên Chúa như nhau.
- Thuật ngữ “con” được lấy từ sự sinh sản của các sinh vật, theo vật được sinh ra thì cùng bản thể với vật sinh ra. Khi vật được sinh ra không bắt nguồn từ vật sinh ra, thì thuật ngữ “con” không còn được dùng theo nghĩa chặt mà chỉ theo nghĩa bóng, tựa như khi gọi những kẻ được ủy thác coi sóc tinh thần là “con” (nghĩa tử). Giả như Đức Kitô được gọi là “Con Thiên Chúa” theo nghĩa là do Thiên Chúa dựng nên chứ không có cùng bản thể Thiên Chúa, thì Người sẽ không còn là Con Thiên Chúa theo nghĩa chặt. Đàng này Kinh Thánh nói Đức Kitô là Con Thiên Chúa theo nghĩa chặt, hơn nữa “Người là Thiên Chúa và sự sống vĩnh cửu” (1 Ga 5,20). Thánh Phaolô viết: “Xét theo huyết thống, Đức Kitô cũng cùng một nòi giống với họ. Người là Thiên Chúa, Đấng vượt trên hết mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn đời” (Rm 9,5); nơi khác, ông viết rằng các Kitô hữu sống “trong sự chờ đợi niềm hy vọng hồng phúc và sự tỏ lộ vinh quang của Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa cao cả và vị cứu tinh của chúng ta” (Tt 2,13). Do đó, đã rõ Con Thiên Chúa là Thiên Chúa thật sự, chứ không phải là thụ tạo.
- Không thụ tạo nào có thể lãnh nhận tất cả sự viên mãn của Thiên tính mà chỉ được chia sẻ một phần nào đó. Thế mà Đức Kitô có tất cả sự viên mãn của Thiên tính, như thánh Phaolô đã viết: “Nơi Đức Kitô tất cả sự viên mãn của Thiên tính hiện diện cách cụ thể” (Cl 2,9). Bởi vậy Đức Kitô không phải là một thụ tạo.
- Từ những lời mà Đức Giêsu thưa với Cha: “Những gì của con đều là của Cha và những gì của Cha đều là của Con” (Ga 17,10) ta kết luận được rằng Cha và Con có cùng bản thể. Vì thế Con không phải là một thụ tạo.
- Không có thụ tạo nào có thể ngang hàng với Thiên Chúa. Thế mà Con thì ngang hàng với Cha, như lời Kinh Thánh: “Các người Do thái tìm cách giết Đức Giêsu, bởi vì không những Người vi phạm ngày Sabat mà còn gọi Thiên Chúa là Cha của mình, đặt mình ngang hàng với Thiên Chúa” (Ga 5,18). Thậm chí Đức Kitô còn tuyên bố ngang hàng với Cha xét về sự sống: “Cũng như Cha đã có sự sống nơi mình thế nào, thì Ngài cũng ban cho Con được có sự sống nơi mình như vậy” (Ga 5,26). Vì thế Con không phải là một thụ tạo. Điều này còn được xác nhận bởi nhiều đoạn văn Tân ước khác, chẳng hạn khi nói rằng Đức Kitô là Đấng Tạo dựng muôn loài (x. Cl 1,16), hoặc khi nói rằng hạnh phúc của con người hệ ở biết Cha là Thiên Chúa chân thật và Đức Giêsu là Đấng được Cha sai đến (x. 17,3???). Thánh Gioan còn viết rằng Đức Kitô là Thiên Chúa thật và sự sống đời đời (1 Ga 5,20).
Tóm lại, đức tin công giáo tuyên xưng rằng Đức Giêsu thật là Con Thiên Chúa, ngang hàng với Cha, cùng bản tính với Cha, được sinh ra chứ không phải được tạo thành. Con được sinh ra bởi Cha có nghĩa là Con nhận được Thiên tính bởi Cha. Còn các lạc thuyết giải thích sự sinh ra cách khác.
Có gì khác biệt giữa ba lạc thuyết nói trên đây?
Khi giải thích về sự sinh ra, Photinô và Sabelliô quy việc sinh ra về bản tính con người (nhân tính); còn Ariô thì không quy về nhân tính nhưng về một bản tính thụ tạo cao hơn các thụ tạo khác.
Ngoài ra, còn một sự khác biệt nữa. Ariô chủ trương rằng sự sinh Đức Kitô diễn ra trước khi tạo dựng vũ trụ; Phôtinô và Sabelliô bàn đến sự sinh khi được sinh bởi Đức Trinh nữ Maria.
Cũng cần biết rằng có một điều khác biệt giữa Phôtinô và Sabelliô: đối với Phôtinô, Đức Kitô là một con người thuần túy; đối với Sabelliô, Đức Kitô là Thiên Chúa thật, được đồng hóa với Chúa Cha.
Trở lại với các vấn nạn của ông Ariô. Ông đã trưng dẫn những đoạn Kinh Thánh cho thấy Đức Kitô ở dưới Chúa Cha. Nhưng Kinh Thánh cũng có những đoạn nói rằng Đức Kitô ngang hàng với Chúa, cùng bản tính với Chúa Cha. Như vậy Kinh Thánh tự mâu thuẫn hay sao?
Kinh Thánh không tự mâu thuẫn. Kinh Thánh khẳng định Cha là Thiên Chúa, và Con là Thiên Chúa, thì không thể kết luận rằng có hai Chúa, hoặc Đức Kitô là Thiên Chúa cấp hai. Có điều là ông Ariô đã giải thích vài đoạn văn theo ý kiến của ông, nhưng ý nghĩa bản văn không phải như thế. Chẳng hạn khi Đức Giêsu thưa với Cha rằng: “Sự sống đời đời ở chỗ họ biết Cha là Thiên Chúa duy nhất chân thật” (Ga 17,3) thì Người không hiểu rằng chỉ duy có Cha mới là Thiên Chúa thật, chứ Con không phải là Thiên Chúa. Nhưng chúng ta đã thấy nhiều đoạn văn khẳng định Con là Thiên Chúa thật. Chúng ta cần lưu ý đến toàn thể Kinh Thánh, chứ không chỉ từng phần, chẳng hạn như khi Đức Kitô tuyên bố rằng: “Không ai biết Con ngoại trừ Cha, và không ai biết Cha ngoại trừ Con” (Mt 11,27) thì Cha và Con được đặt ngang hàng với nhau về kiến thức của Thiên Chúa, chứ không ai ở trên ai.
Ở 1 Tm 6,14 tt, thánh Phaolô nói đến Cha là Chủ tể độc nhất, Đấng duy nhất trường sinh bất tử sẽ tỏ bày Đức Giêsu Kitô khi đến thời ấn định. Nhưng những điều ấy cũng được áp dụng cho Đức Kitô, là Đấng bất tử và có thể trao ban nó: “Hễ ai sống và tin vào Tôi thì sẽ không chết mãi mãi” (Ga 11,26).
Một thí dụ khác. Đức Giêsu nói: “Cha lớn hơn tôi” (Ga 14,28). Thánh Phaolô trong 1 Cr 15,28 nói rằng Đức Kitô “sẽ suy phục Chúa Cha”. Nhưng hai đoạn văn này nói đến Đức Giêsu ở dưới Cha xét theo nhân tính.
Một thí dụ khác mà Ariô đưa ra là Cha trao ban và Con lãnh nhận. Điều này không chứng tỏ Đức Kitô thiếu thốn mà chỉ muốn nói rằng Con được sinh ra bởi Cha. Thực vậy, Đức Kitô không thể nào là Con nếu không được Cha sinh ra: Cha trao ban cho Con có nghĩa là sinh ra, nghĩa là trao ban Thiên tính cho Con.
Tóm lại, ông Ariô chỉ dùng một vài đoạn văn và giải thích theo ý kiến của mình, nhưng lại không để ý đến tất cả các đoạn văn Kinh Thánh.
Còn những luận cứ của ông Phôtinô và Sabelliô thì sao?
Hai ông này cũng vậy: họ trích dẫn vài đoạn văn mà không xét toàn bộ Kinh Thánh. Thí dụ như ông Phôtinô. Những lời của Đức Kitô sau khi phục sinh “Thầy được trao mọi quyền năng trên trời dưới đất” được ông giải thích rằng chỉ sau khi sống lại, Đức Giêsu mới nhận được quyền này. Không phải thế. Bản văn muốn nói rằng: quyền năng mà Con Thiên Chúa đã lãnh từ muôn thuở bắt đầu được tỏ hiện nơi Người, kẻ chiến thắng sự chết nhờ sự phục sinh. Một thí dụ khác của ông Sabelliô. Những lời của Đức Kitô: “Cha là Đấng ở trong Tôi, thực hiện những việc của Ngài” (Ga 14,10) và “Tôi ở trong Cha và Cha ở trong Tôi” (Ga 14,11) không muốn nói sự đồng nhất về ngôi vị (theo ý kiến của Sabelliô) nhưng là đồng nhất về bản tính (điều mà ông Ariô phủ nhận).
Ông Sabelliô đồng hóa Đức Giêsu với Chúa Cha: cả hai đều là một Thiên Chúa; ông bị coi là lạc đạo; ông Ariô tách rời Đức Kitô ra khỏi Cha nhưng không coi Đức Kitô đồng bản tính với Chúa Cha, thế rồi ông cũng bị coi là lạc đạo. Vậy thì đâu là đức tin chân chính?
Theo đức tin công giáo, Cha và Con là hai ngôn vị khác nhau nhưng đều chung một bản tính Thiên Chúa. Mối tương quan giữa Cha và Con được dựa trên sự sinh ra: Cha sinh ra Con.
-- -- C. Sự sinh ra
Làm thế nào có sự sinh ra nơi Thiên Chúa được? Nếu Cha sinh ra Con, thì tất nhiên là Cha lớn hơn Con chứ không thể ngang nhau được.
Thuật ngữ “sinh ra” dựa trên nền tảng của Kinh Thánh, cụ thể là Thánh vịnh 2, câu 7: “ Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con (hodie genui te)”. Từ đó trong kinh Tin kính, chúng ta tuyên xưng rằng: “Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời (ex Patre natum ante omnia saecula...) được sinh ra mà không phải được tạo thành (genitum, non factum), đồng bản thể với Đức Chúa Cha. Thực ra, không dễ gì hiểu được việc “sinh ra” ở nơi Thiên Chúa, bởi vì từ này mang nhiều thiếu sót trong quan niệm của loài người, có thể tóm lại như sau:
- Sự sinh ra hàm ngụ một sự biến đổi nơi người sinh cũng như người được sinh; thế nhưng Thiên Chúa thì bất biến, và Con thì hằng hữu, chứ không phải có sau Cha. Như vậy Sabelliô có lý.
- Nói rằng Cha sinh ra Con thì có nghĩa là Con nhận được Thiên tính bởi Cha; thế nhưng Thiên tính đâu có thể phân chia và san sẻ được! Bản tính Thiên Chúa là đơn thuần mà! Nếu Cha ban Thiên tính cho Con thì hoặc là Cha mất hết Thiên tính, hoặc là Con nhận được một bản tính khác với bản tính của Cha, và như thế Con không phải là Thiên Chúa. Như vậy Ariô có lý.
Để vượt qua những khó khăn vừa nói, chúng ta nên chấp nhận giới hạn của ngôn ngữ loài người khi bàn đến Thiên Chúa. Chúng ta đừng nên hình dung Thiên Chúa theo khuôn khổ con người, nhưng hãy làm ngược lại. Khi nói đến sự sinh ra, chúng ta thường chỉ nghĩ đến hiện tượng nơi loài cây cỏ, động vật, và được hiểu theo nghĩa sinh lý. Tuy nhiên, còn có một thứ sinh nữa, hiểu về tinh thần. Khi ta nghĩ một điều gì thì trong đầu óc nảy sinh một ý tưởng. Và trong ngôn ngữ thông thường, người ta cũng nói đến “người cha tinh thần” áp dụng cho một văn sĩ hoặc nghệ sĩ đối với các tác phẩm của mình, hoặc một nhà tư tưởng đã “đẻ ra” một học thuyết. Như vậy, bước thứ nhất mà chúng ta phải làm là hiểu việc “sinh” ở đây theo nghĩa tinh thần chứ không theo nghĩa thể lý.
Tiến thêm một bước nữa, ta phải loại trừ những gì liên quan đến thời gian trước sau hoặc liên quan đến chủ thể và hành động. Như vừa nói, khi tôi nghĩ điều gì thì trong đầu tôi nảy ra một tư tưởng. Tư tưởng ấy là con đẻ của tôi, nhưng nó có sau tôi: tôi hiện hữu trước tư tưởng, và tôi không đồng hóa mình với tư tưởng bởi vì không phải lúc nào tôi cũng suy nghĩ, xét vì tôi còn nhiều chuyện khác nữa phải làm. Nơi Thiên Chúa thì khác hẳn: không có sự phân biệt giữa hiện hữu và hoạt động, không có sự phân biệt giữa trước với sau. Nói cách khác, bản tính Thiên Chúa đồng hóa với hiểu biết và Ngài luôn luôn hiểu biết. Bây giờ chúng ta áp dụng vào điều đang bàn. Thiên Chúa sinh Con, mà thánh Gioan cũng gọi là Lời, không phải là lời phát ra ngoài miệng mà là lời nội tại. Như vậy Con Thiên Chúa là Lời, cùng bản tính với Thiên Chúa và hiện hữu cùng với Thiên Chúa, ngay từ buổi đầu như thánh Gioan viết: “Lúc khởi đầu đã có Lời, Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa” (Ga 1,1). Mặt khác, cần nhấn mạnh rằng Lời là Thiên Chúa nhưng Lời là một ngôi vị khác biệt với Cha. Chúng ta đừng để mình rơi vào lạc thuyết Sabelliô! Dù vậy, không thể nói được là bản tính Thiên Chúa bị chia đôi, mỗi người giữ một nửa! Không, bản tính Thiên Chúa duy nhất, không thể phân mảnh được. Cha là Thiên Chúa, Con cũng là Thiên Chúa: chỉ có một Thiên Chúa chứ không có hai Thiên Chúa.
Thánh Phaolô muốn nói gì khi gọi Đức Kitô là “hình ảnh Thiên Chúa vô hình, được sinh ra trước mọi loài thụ tạo” (Cl 1,15)?
Có hai thứ hình ảnh. 1/ Một thứ không có sự đồng nhất về bản tính giữa nguyên mẫu và hình ảnh, thí dụ như một bức tượng đồng họa lại hình thù của một nhân vật nào đó. 2/ Có một thứ hình ảnh có cùng bản tính nguyên mẫu, thí dụ một hoàng tử giống nhà vua như đúc; cả hai cha con đều là người. Tuy vậy, Đức Kitô là hình ảnh Thiên Chúa không theo hai thứ vừa nói. Người là Lời của Thiên Chúa, có cùng bản tính Thiên Chúa. Người là hình ảnh Thiên Chúa bởi vì có cùng bản tính với Thiên Chúa; hơn thế nữa Người hiện hữu từ muôn thuở với Thiên Chúa, trong khi ở trên đời này, hình ảnh xuất hiện sau nguyên mẫu. Mặt khác Ngôi Lời tách rời khỏi Cha (khác với quan niệm của Sabelliô), tuy dù không thể nói là có hai Chúa! Dĩ nhiên đây là điều rất khó hiểu: những từ ngữ “sinh ra”, “Con”, “Lời”, “Hình ảnh” mang tính loại suy, lấy từ thế giới của chúng ta để giải thích phần nào mầu nhiệm Thiên Chúa hoàn toàn khác.
Đức Kitô cũng được gọi là “Đấng Khôn ngoan”của Thiên Chúa. Danh hiệu này muốn nói lên điều gì?
Đôi khi trong Tân ước, Đức Giêsu được gọi là “Đấng Khôn ngoan” của Thiên Chúa, chẳng hạn như thánh Phaolô trong 1 Cr 1,24: “Chúng tôi rao giảng Đức Kitô quyền năng của Thiên Chúa và khôn ngoan của Thiên Chúa”. Thật ra khó chuyển cụm từ này ra tiếng Việt, bởi vì có thể nói “sự khôn ngoan” hoặc “Đức Khôn ngoan” hoặc “Đấng Cao minh”.
Trong ngôn ngữ thường ngày, người khôn ngoan hay cao minh là người có kiến thức cao siêu, thấu hiểu những điều huyền diệu. Khi áp dụng vào Thiên Chúa thì tiên vàn phải nói rằng Thiên Chúa là Đấng Cao Minh, bởi vì Ngài biết tất cả mọi sự, nhất là biết chính bản tính của Ngài. Mặt khác Đức Kitô, Lời của Thiên Chúa cũng gọi được là Đấng Khôn ngoan của Thiên Chúa, bởi vì Ngài là “tư tưởng”, “sự hiểu biết” của Thiên Chúa. Ngoài ra, thư gửi Hip-ri (1,3) còn viết rằng Người “là phản ảnh vẻ huy hoàng của Cha”. Ta có thể giải thích như là ánh sáng soi chiếu tâm trí của loài người ngõ hầu họ có thể hiểu biết về Thiên Chúa. Như vậy, “Khôn ngoan / Cao minh / Minh tuệ” hoặc “Lời Thiên Chúa” mang cùng ý nghĩa. Trong Cựu ước, thuật ngữ này không những ám chỉ một ưu phẩm của Thiên Chúa, mà còn ám chỉ một nhân vật ở bên cạnh Thiên Chúa lúc tạo dựng vũ trụ và đồng thời cũng muốn ở gần loài người (x. Cn chương 24; Kn 7,22-8,8).