Đàm đạo về “Summa Contra Gentiles” của thánh Tôma Aquinô" - Kỳ II
Đàm đạo về “Summa Contra Gentiles”
của thánh Tôma Aquinô
(1225-1274)
*****
Kỳ II
QUYỂN MỘT
Mục 1: Những câu hỏi dẫn nhập
Tựa đề cuốn sách có ý nghĩa gì?
Trong nguyên bản Latinh, tựa đề cuốn sách là Summa contra gentiles, thường được dịch sang tiếng Việt là “Tổng luận chống dân ngoại” (hay: chư dân). Tuy nhiên, bên cạnh tựa đề khá quen thuộc ấy, nhiều thủ bản Latinh còn mang tựa đề là: Liber de Veritate Catholicae Fidei contra errores infidelium (Sách về chân lý đức tin Kitô giáo chống lại những sai lầm của những người ngoại đạo).
Những người ngoại đạo là ai vậy?
Một lưu truyền lâu đời cho rằng thánh Tôma viết sách này nhằm giúp các nhà thừa sai Công giáo đi giảng đạo cho những người Islam; vì thế cần nắm chắc chân lý đạo của mình cũng như niềm tin của Islam. Một ý kiến khác cho rằng vào thế kỷ XIII, “dân ngoại”cũng bao gồm đạo Do-thái nữa. Tuy nhiên, khi đi sâu vào nội dung cuốn sách, người ta thấy rằng tác giả còn đề cập đến các lạc giáo nữa; hay nói chung, tất cả những học thuyết trái ngược với đức tin Kitô giáo. Tác giả muốn giúp các tín hữu đào sâu đức tin vả trả lời những tư tưởng trái nghịch.
Như vậy, đây là một tác phẩm thần học hay triết học?
Đây là một tác phẩm thần học theo nguyên gốc của từ này trong tiếng Hy-lạp (theologia ghép bởi: theos, nghĩa là Thiên Chúa, và logos nghĩa là lời, lý luận). Tác phẩm này bàn về Thiên Chúa nhưng không chỉ dựa trên giáo lý đức tin mà còn dựa trên lý luận triết học nữa. Như vậy, tác phẩm có thể xếp vào thể loại thần học hoặc vào thể loại triết học cũng được.
Tại sao phải sử dụng triết học để bàn về Thiên Chúa?
Mỗi khi nghe nói đến triết học, chúng ta dễ liên tưởng đến các học thuyết cao siêu, tối tăm, khó hiểu! Ở đây, thánh Tôma hiểu triết học theo một nghĩa rất đơn giản, đó là lý trí con người, và ngài lập luận rằng khi đối thoại với người khác, chúng ta cần phải tìm hiểu một nền tảng chung được đôi bên chấp nhận, rồi dựa vào đó, chúng ta đi sâu vào những điểm bất đồng. Chẳng hạn như khi trình bày đức tin Kitô giáo cho người lạc giáo thì chúng ta dựa trên Kinh Thánh Tân ước, còn khi nói chuyện với người Do thái thì chúng ta dựa trên Kinh Thánh Cựu ước. Nhưng khi nói chuyện với người không chấp nhận Kinh Thánh, thì chúng ta chỉ có thể dựa trên những nguyên tắc của lý trí để đi tìm chân lý.
Tác phẩm mở đầu với việc giải thích nhiệm vụ của người minh tuệ. Thánh Tôma muốn nói gì?
Nên biết là trong tiếng Việt, chúng ta dùng từ “khôn ngoan” để dịch hai từ khác nhau trong tiếng Latinh và các ngôn ngữ Âu châu, đó là sapiens (Pháp: sage; Anh: wise; Ý: saggio) và prudens (prudent trong tiếng Pháp và Anh; Ý: prudente). Sapiens ám chỉ sự hiểu biểt cao siêu (mà có thể dịch là minh tuệ, cao minh, hiền triết); Prudens ám chỉ thái độ thận trọng, biết cân nhắc phải trái khi hành động. Nên biết là “triết học” trong nguyên ngữ Hy-lạp là philosophia, có nghĩa là yêu chuộng sự cao minh (sophia trong tiếng Hy-lạp tương đương với sapientia trong tiếng Latinh).
Một cách cụ thể, mở đầu tác phẩm, tác giả ví mình như kẻ cao minh (CG I,1). Theo nghĩa nào? Người cao minh là người biết hướng cuộc đời của mình vào mục đích tối hậu. Mục đích tối hậu của con người và của vạn vật là Thiên Chúa. Từ đó, nhiệm vụ của người cao minh là truy tầm nguồn gốc và mục đích của vạn vật là Thiên Chúa; và rồi tuyên xưng chân lý về Thiên Chúa, và bảo vệ chân lý ấy chống lại mọi sai lầm trái nghịch với chân lý. Chúng ta đừng quên rằng trước toàn tổng trấn Philatô, chính Chúa Giêsu cũng định nghĩa sứ mạng của mình là “làm chứng cho chân lý” (Ga 18,36).
Chân lý nào?
Ông Philatô đã đặt cho Chúa Giêsu một câu hỏi tương tự: chân lý là gì? Tuy nhiên ở đây, câu hỏi hơi khác, đó là: làm chứng cho chân lý nào? Xin thưa rằng làm chứng cho chân lý về Thiên Chúa. Trong lãnh vực này, thánh Tôma lưu ý rằng có hai loại chân lý về Thiên Chúa. Có những chân lý vượt quá khả năng hiểu biết của chúng ta, chẳng hạn như Thiên Chúa nhất thể tam vị. Có những chân lý mà lý trí tự nhiên có thể biết được, chẳng hạn nhưng Thiên Chúa hiện hữu, hằng cửu, vô biên.
Bằng cách nào lý trí có thể biết những chân lý liên quan đến Thiên Chúa?
Nói chung, sự hiểu biết của chúng ta khởi đi từ những vật hữu hình mà các giác quan có thể nắm bắt, rồi từ đó lý trí rút ra các khái niệm trừu tượng. Vì thế để hiểu biết Thiên Chúa, chúng ta khởi đi từ những vật hữu hình chung quanh ta, chẳng hạn như thân thể của mình, những vật hữu hình, vũ trụ vật chất. Từ những vật hữu hình, lý trí chúng ta được dẫn đến chỗ nhận biết sự hiện hữu của Thiên Chúa và vài ưu phẩm của Ngài. Nếu chúng ta thấy một cuốn sách, thì chúng ta có thể quả quyết rằng đã có một người nào đó đã nghĩ và viết ra nó. Nếu chúng ta nhìn ra vũ trụ, chúng ta phải nhìn nhận phải có một trí tuệ nào đã làm ra nó, mà chúng ta gọi là Thiên Chúa (hay Đấng Tạo Hóa). Tuy nhiên sự hiểu biết này mắc phải nhiều giới hạn.
Giới hạn như thế nào?
Chúng ta tạm nói đến hai loại giới hạn. Một loại giới hạn do chính bản tính của lý trí. Lý trí chỉ có thể khẳng định rằng có Thiên Chúa (Thiên Chúa hiện hữu), chứ không biết rõ bản tính của Ngài (Ngài như thế nào?). Như sẽ thấy sau, chúng ta chỉ dám nói rằng Ngài không giống như chúng ta, không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Nhưng đó là lối nói “phủ định” (Thiên Chúa không phải như vậy); nhưng ta không thể nói nhiều về Ngài bằng cách “khẳng định”. Cần có Thiên Chúa mặc khải thì chúng ta mới có thể biết đôi chút về bản tính của Ngài.
Còn loại giới hạn thứ hai thì sao?
Loại giới hạn nảy sinh điều kiện lịch sử của con người. Có những chân lý mà trí tuệ con người có khả năng khám phá, nhưng trên thực tế không phải hết mọi người đều đạt tới sự hiểu biết đó. Một cách cụ thể, tuy lý trí có thể nhìn nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa, nhưng đâu phải hết mọi người đều chấp nhận điều ấy. Việc khám phá sự hiện hữu đòi hỏi nhiều thời gian suy nghĩ và học hỏi, và thế không phải ai ai cũng làm được điều đó. Mặt khác, lịch sử nhân loại cho thấy tuy rằng con người tin rằng có một thực thể linh thiêng, nhưng con người diễn tả thực tại ấy qua nhiều biểu tượng (kể cả động vật hay thực vật), hoặc rơi vào tôn giáo đa thần. Chính vì thế ta cần đến mặc khải của Thiên Chúa, không những để biết những chân lý vượt quá khả năng khám phá của lý trí, mà còn để biết những chân lý tự nhiên một cách dễ dàng, chắc chắn, không sai lầm.
Chúng ta cần Thiên Chúa mặc khải những chân lý thuộc khả năng hiểu biết của con người để giúp con người hiểu biết dễ dàng và chắc chắn hơn. Ngoài ra Ngài còn mặc khải những điều vượt quá tầm hiểu biết của lý trí. Để làm gì vậy?
Không phải là không có lý do khi Thiên Chúa mặc khải những điều vượt quá tầm hiểu biết của con người. Thánh Tôma đưa ra bốn lý do thích hợp như sau:
Thứ nhất, Thiên Chúa đã dành cho con người một hạnh phúc siêu việt, đó là được chiêm ngưỡng Ngài trong vinh quang bất tận. Con người không thể nào biết được điều ấy nếu chính Thiên Chúa không mặc khải. Sự mặc khải này đem lại niềm khát vọng vô biên được nếm hưởng điều đó mai sau. Tuy vậy ngay từ đời này, con người có thể hưởng kiến Thiên Chúa nhờ đức tin.
Thứ hai, Thiên Chúa mặc khải những chân lý đức tin ngõ hầu hiểu biết Thiên Chúa một cách chắc chắn hơn, tránh được biết bao lầm lạc, như lịch sử đã cho thấy.
Thứ ba, Thiên Chúa đòi hỏi con người hãy tin vào chân lý mặc khải nhằm giúp cho con người bớt tự phụ, nghĩ rằng trí tuệ mình có thể biết hết mọi sự. Không phải thế, còn rất nhiều điều, đặc biệt liên quan đến lãnh vực thần linh, mà con người không tài nào khám phá nổi.
Thứ bốn, nhờ chấp nhận những chân lý mặc khải, tâm trí con người được nâng lên để ước ao tìm kiếm thực tại thần linh, thay vì để cho mình bị nhốt trong những thực tại vật chất trần thế.
Đối với những chân lý tự nhiên, lý trí có thể khám phá và hiểu được. Mặc khải chỉ đến hỗ trợ cho lý trí trong công tác này. Nhưng đối với những chân lý vượt quá khả năng tự nhiên thì con người không thể hiểu được mà chỉ đón nhận bằng đức tin. Con xin hỏi: các chân lý đức tin có ăn khớp với lý trí không? Tương quan giữa lý trí và các chân lý đức tin như thế nào?
Chân lý đức tin vượt trên lý trí, nhưng không thể trái nghịch với lý trí, cũng như không thể nào có sự trái nghịch giữa những nguyên lý tự nhiên của lý trí và các chân lý của đức tin Kitô giáo.
Những nguyên lý tự nhiên của lý trí có nghĩa là gì?
Đó là những “nguyên lý đệ nhất” được thủ đắc không do sự học hỏi và suy tư nhưng bẩm sinh trong trí tuệ con người, kể cả trong đầu óc các em bé. Thí dụ như nguyên lý “bất mâu thuẫn”, “nguyên lý “toàn bộ thì lớn hơn từng phần”, nguyên lý “nhân quả”, nguyên lý “đừng làm cho người khác điều mà bạn không muốn người khác làm cho mình”. Tôi xin lấy một thí dụ về nguyên lý “toàn bộ thì lớn hơn từng phần”: tôi lấy một tấm bánh ngọt, cắt ra hai miếng, và đặt lên một cái đĩa, rồi hỏi một em bé hai tuổi: cái bánh to hơn hay là miếng bánh to hơn? Em bé trả lời ngay: cái bánh to hơn. Đấy nhé, đâu có ai dạy em về nguyên lý “toàn bộ lớn hơn thành phần” đâu, vậy mà em cũng biết.
Các “nguyên lý đệ nhất” đã được in sâu vào tâm trí mỗi người, và là khởi điểm cho những hiểu biết khác. Những điều mà một ông giáo dạy mà trái ngược với những “nguyên lý đệ nhất” thì khó mà chấp nhận. Các chân lý đức tin được Thiên Chúa mặc khải không thể nào tương phản với những nguyên lý của lý trí, bởi vì cả hai đều có chung một nguồn gốc. Thật vậy Thiên Chúa là Đấng tác thành nên bản tính con người, đồng thời cũng là phú bẩm đức tin vào linh hồn chúng ta. Nói các khác, những điều mà chúng ta tin, bắt nguồn từ mặc khải, không bao giờ mâu thuẫn với những kiến thức tự nhiên, bởi vì cũng là hồng ân Chúa ban.
Nhưng làm thế nào mà các chân lý đức tin, vượt quá lý trí, mà lại có thể phù hợp với lý trí được?
Ta đừng nên lẫn lộn; chân lý mặc khải vượt quá lý trí nhưng không trái nghịch với lý trí. Lý trí con người được thông dự vào sự hiểu biết của Thiên Chúa, bởi vì con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa; tuy nhiên trí tuệ con người không vô biên giống như Thiên Chúa. Vì thế không có sự mâu thuẫn giữa trí tuệ con người và trí tuệ Thiên Chúa; duy có điều là sự hiểu biết của Thiên Chúa vượt xa sự hiểu biết của chúng ta ngàn trùng.
Thánh Tôma nói rằng tuy đầu óc chúng ta bé nhỏ nhưng nếu tìm cách hiểu biết những điều cao siêu, thì sẽ cảm thấy niềm vui; mặc dầu chúng ta chưa hiểu biết hoàn toàn các chân lý đức tin nhưng càng lên cao càng thấy muốn tiến mãi. Đồng thời, ngài cũng cảnh giác rằng chúng ta đừng có kỳ vọng sẽ hiểu biết thấu suốt về Thiên Chúa, bởi vì như thánh Augustinô đã nói: “Nếu bạn hiểu được Thiên Chúa thì điều đó không phải là Thiên Chúa đâu!” (Si comprehendis non est Deus, Sermo 117,3.5: PL 38, 633).
Một cách vắn tắt, những chân lý nào về Thiên Chúa vượt quá tầm hiểu biết của lý trí, những chân lý nào lý trí có thể khám phá được?
Chân lý về Thiên Chúa thì chỉ có một: Thiên Chúa là chân lý duy nhất; nhưng sự phân biệt là về phía con người chúng ta. Có những chân lý mà nếu Chúa không mặc khải thì con người không tài nào biết được; có những chân lý mà con người có thể biết được và sẽ hiểu rõ ràng hơn nhờ Chúa mặc khải. Dựa trên nguyên tắc đó, thánh Tôma phân chia cuốn “Tổng luận chống lại chư dân” thành bốn quyển. Ba quyển đầu tiên trình bày những chân lý mà lý trí có khả năng khám phá, đó là: 1/ Thiên Chúa hiện hữu. 2/ Thiên Chúa là Đấng Tạo thành và cội nguồn muôn vật. 3/ Thiên Chúa là cứu cánh của muôn vật. Quyển thứ bốn bàn về các mầu nhiệm mà lý trí không thể khám phá được, đó là: mầu nhiệm một Chúa Ba ngôi; mầu nhiệm Thiên Chúa làm người để cứu chuộc nhân loại; sự phục sinh thân xác.