Skip to content
Banner 10.2024
Ngôn ngữ

Đàm đạo về “Summa Contra Gentiles” của thánh Tôma Aquinô" - Kỳ III

Văn phòng Học Viện
2025-09-22 06:27 UTC+7 550
Tác phẩm "ĐÀM ĐẠO VỀ SUMMA CONTRA GENTILES CỦA THÁNH TÔMA AQUINÔ", của Linh mục Giuse Phan Tấn Thành, OP., là lời giới thiệu và tóm tắt về bộ Summa Contra Gentiles – bộ tổng luận quan trọng nhưng ít được biết đến của thánh Tôma Aquinô. Học viện Thần học Đa Minh đã giới thiệu cuốn sách này trước đây. Tác giả và Học viện Thần học Đa Minh tiếp tục đăng nội dung của cuốn sách, theo từng kỳ tương ứng với các mục trong bố cục tác phẩm, nhằm phục vụ nhu cầu của độc giả được rộng rãi hơn.

Đàm đạo về “Summa Contra Gentiles”

của thánh Tôma Aquinô

(1225-1274)

*****

Kỳ III

Mục 2: Sự hiện hữu của Thiên Chúa

Mở đầu các chân lý về Thiên Chúa là sự hiện hữu của Ngài. Nếu không có Thiên Chúa, thì hơi đâu tốn thời giờ để nói về Ngài? Thế nhưng sự hiện hữu của Thiên Chúa là một điều lý trí có thể khám phá, hay cần có mặc khải của Chúa mà chúng buộc phải tin?

Liên quan đến sự hiện hữu của Thiên Chúa, thánh Tôma xếp các chủ trương vào thời của ngài thành ba nhóm: nhóm thứ nhất cho rằng sự hiện hữu của Thiên Chúa là một điều hiển minh giống như các “nguyên lý đệ nhất”, không cần chứng minh (CG I,10-11). Nhóm thứ hai cho rằng sự hiện hữu của Thiên Chúa không thể nào chứng minh bằng lý trí mà chỉ có thể chấp nhận bằng đức tin (CG I,12). Nhóm thứ ba cho rằng lý trí có thể chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa (CG I,13). Thánh Tôma ủng hộ nhóm thứ ba.

Dựa vào đâu mà nhóm thứ nhất chủ trương rằng sự hiện hữu của Thiên Chúa đã quá rõ ràng, không cần chứng minh?

Thánh Tôma trả lời bằng hai cách. Một đàng, ngài giải thích nguyên nhân của chủ trương này; đàng khác, ngài cho thấy chủ trương này không đứng vững. Trước hết, thánh nhân tự hỏi: dựa vào đâu mà có người cho rằng sự hiện hữu của Thiên Chúa đã quá rõ ràng? Đó là tại vì ngay từ hồi con nhỏ, họ đã nghe nói đến Thiên Chúa và cầu khẩn Ngài; và điều gì đã được dạy từ lúc tuổi thơ thì dễ ghi sâu vào tâm khảm, đến nỗi coi như là nằm trong bản tính con người. Kế đến, thánh Tôma xét đến các lập luận của họ để cho thấy rằng lập luận của họ không vững. Thứ nhất, nếu nói rằng sự hiện hữu của Thiên Chúa là điểu hiển minh, vậy thì tại sao có nhiều người phủ nhận, và ta phải tốn sức để thuyết phục họ? Đàng khác, một số người chủ trương rằng Thiên Chúa là nguyên lý nhờ đó chúng ta hiểu biết tất cả mọi vật khác, tựa như ánh sáng mặt trời là nguyên ủy để ta nhìn thấy các vật khác; vì thế giả như không có Thiên Chúa thì chẳng vật nào hiện hữu. Thánh Tôma phân biệt như sau; nếu nói rằng Thiên Chúa là nguyên ủy của muôn vật, nhờ đó mà muôn vật hiện hữu thì đúng; nhưng nếu nói rằng cần phải biết Thiên Chúa trước đã thì ta mới có thể hiểu biết các vật khác thì không đúng. Thực vậy, bởi vì có rất nhiều người không biết Thiên Chúa (thậm chí họ phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa) mà vẫn có thể hiểu biết các vật khác.

Còn chủ trương của nhóm thứ hai thì sao?

Theo ý kiến của nhóm thứ hai, sự hiện hữu của Thiên Chúa là một chân lý mà ta phải tin nhờ có mặc khải, chứ không thể chứng minh được. Họ trưng ra các lập luận như sau. Thứ nhất, bởi vì nơi Thiên Chúa, sự hiện hữu đồng hóa với bản tính; thế mà chúng ta không thể biết được bản tính của Thiên Chúa cho nên cũng không thể biết được sự hiện hữu của Ngài. Thứ hai, bởi vì chúng ta không biết Thiên Chúa như thế nào, vì thế ta cũng chẳng biết có Ngài hay không. Thứ ba, bởi vì tri thức của chúng ta khởi đi từ giác quan, bởi vậy điều gì vượt quá giác quan thì cũng nằm ngoài tầm hiểu biết của chúng ta; nói cách khác, lý trí không thể chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa.

Thánh Tôma trả lời thế nào?

Thánh Tôma trưng dẫn một khẳng định của thánh Phaolô trong thư gửi các tín hữu Rôma (1,20) để phản bác lập luận vừa nói: “Từ hồi tạo dựng đến nay, các sự hoàn thiện vô hình của Thiên Chúa có thể được trí tuệ nhận biết qua các công trình của Ngài, tựa như quyền năng vĩnh cửu và thiên tính của Ngài”. Thánh Phaolô nói rằng dân ngoại không thể chữa mình được, bởi vì mặc dù có khả năng biết Thiên Chúa nhờ lý trí qua công trình tạo dựng, nhưng họ đã không thực hiện bởi ý định xấu xa và những lợi ích vật chất.

Sau khi đã phê bình hai chủ trương trái nghịch nhau liên quan đến việc minh chứng sự hiện hữu của Thiên Chúa, thánh Tôma đưa ra quan điểm của mình, đó là lý trí có thể minh chứng Thiên Chúa hiện hữu, dựa theo lý luận của các triết gia Hy-lạp (CG I,13). Phương pháp của ngài là đi từ hậu quả biết được để tới nguyên nhân chưa biết, và ngài trình bày qua 5 con đường như sau.

Có phải là “ngũ đạo” không?

Đúng rồi, nhưng cách trình bày trong Sách “Tổng luận thần học” (I, q. 2, a. 2) thì dễ hiểu hơn là trong sách “Tổng luận chống lại chư dân”, vì thế tôi chọn đường lối của Tổng luận thần học.

1/ Con đường thứ nhất lấy từ sự chuyển động, được phát biểu như sau: “Vật gì chuyển động thì được thúc đẩy bởi một vật khác”. Ở đây, ta hiểu sự chuyển động không chỉ theo nghĩa vật lý mà cả sự chuyển động về sự sống hoặc về tinh thần, nghĩa là thay đổi. Chúng ta thấy trong thế giới có nhiều chuyển động, nhưng không có gì có thể tự mình chuyển động mà cần có phải có cái gì thúc đẩy (thí dụ như nước lạnh không thể tự nó nóng lên, nhưng cần đến sức nóng của lửa). Thế nhưng chúng ta không thể đi ngược lại đến vô tận, mà phải nhìn nhận rằng có một “Động lực không bị động” mà chúng ta gọi là Thiên Chúa.

2/ Con đường thứ hai khởi từ khái niệm về nguyên nhân tác thành. Ta thấy trên thế giới có một xâu các nguyên nhân tác thành tương tác lẫn nhau. Thế nhưng, chúng ta không thể đi ngược lại đến vô tận, nhưng phải chấp nhận một nguyên nhân tác thành đệ nhất mà chúng ta gọi là Thiên Chúa, là “nguyên nhân không có căn nguyên”.

3/ Con đường thứ ba dựa trên sự ngẫu nhiên và tất yếu. Trên thế giới này, ta thấy có những vật có sinh có tử, nay còn mai mất. Điều đó có nghĩa là chúng có thể và có thể không có, nghĩa là ngẫu nhiên. Thế nhưng các vật ngẫu nhiên không thể luôn luôn hiện hữu, bởi vì cái không có thì không thể sinh ra cái có, và giả như tất cả đều ngẫu nhiên thì sẽ chẳng có cái gì hiện hữu. Vì thế vật ngẫu nhiên đòi phải có một vật tất yếu, nghĩa là tự nó hiện hữu chứ không lệ thuộc vào vật nào khác. Chúng ta gọi “Hữu thể tất yếu” là Thiên Chúa. Ngài là “Hữu thể tất yếu”.

4/ Con đường thứ bốn khởi đi từ các cấp độ trong vạn vật. Ta thấy trên đời có cái tốt, cái đẹp, cái thật ở cấp độ cao thấp. Điều này cũng gặp thấy ở các ưu phẩm khác. Khi so sánh nhiều ít, cao thấp là chúng ta quy chiếu về một cái gì tuyệt đối: có một cái gì tuyệt đẹp, tuyệt hảo, và là căn nguyên của sự hiện hữu, chân, thiện, mỹ, trở thành “nguồn mạch” của mọi thiện hảo, và chúng gọi đó là Thiên Chúa. Thiên Chúa là “Đấng Tuyệt hảo”.

5/ Con đường thứ năm rút từ việc cai quản muôn loài. Chúng ta nhận thấy rằng muôn vật vô tri, chẳng hạn như tinh tú, thảo mộc, hoạt động theo một mục tiêu, một trật tự. Thế nhưng một loài vô tri giác không thể hướng về một mục tiêu nếu không được điều khiển bằng một trí tuệ, chẳng hạn như mũi tên được điều khiển bởi người bắn cung có trí tuệ. Như vậy, ắt phải có một “Trí tuệ tối cao” điều khiển mọi sự về một mục tiêu. Chúng ta gọi đó là Thiên Chúa.

Chia sẻ