Skip to content
Banner 10.2024
Ngôn ngữ

Ý nghĩa “Vui – Thương – Mừng” trong đời người, theo Thánh Tôma

Văn phòng Học Viện
2025-10-06 15:09 UTC+7 67

Bài tĩnh tâm đầu tháng Mân Côi, trong một tu viện chọn Đức Mẹ Mân Côi, không thể nào không nhắc tới ba “Mùa” Vui-Thương-Mừng. Mặt khác, chúng ta đang ở trong vòng ba kỷ niệm bách chu niên của thánh Tôma (phong thánh 1323 – từ trần 1274 – sinh nhật 1225), cho nên không thể nào không nhắc đến vị Tiến sĩ Thiên thần. Tuy nhiên, tôi sẽ không đề cập thánh Tôma với kinh Mân côi, nhưng trình bày một hướng khác: “Ý nghĩa của  Vui-Thương-Mừng trong đời người” dựa theo đạo lý của ngài về các cảm xúc.

A. Những câu hỏi

Để mở đầu, xin phép đặt ra hai câu hỏi liên quan đến từ ngữ và chủ thể        

1/ Ý nghĩa của từ ngữ

- Vui và Mừng khác nhau ở chỗ nào? Có cái vui nào mà không mừng? Có cái mừng nào mà không vui?

- Đối lại với vui là gì: “vui / buồn” hay là “vui / thương”?

- Thương là gì? Đây là một từ hàm hồ: thương có thể gắn với yêu (thương yêu thương mến)  hoặc đau (đau thương, thương xót, thương tổn)?

2/ Chủ thể

            Chúng ta đang suy gẫm về “vui-thương-mừng” của ai:  của Mẹ Maria, của Chúa Giêsu, hay của chúng ta?

-   Của Mẹ Maria ? Thế nhưng Mẹ hầu như vắng bóng trong các mầu nhiệm mùa Thương (đối lại với mùa Vui thì luôn có mặt, còn mùa Mừng chỉ có một nửa). Quả là lúc đầu đối tượng của kinh Mân côi là Đức Maria (Psalterium B.M.V: 150 kinh kính mừng, tương đương với 150 thánh vịnh); nhưng với tông thư Marialis cultus của ĐTC Phaolô VI (ngày 2-2-1974), kinh Mân côi được gọi là “Tóm lược Tin mừng”; đối tượng không phải là Mẹ Maria nhưng là Chúa Giêsu; hay nói đúng hơn, cùng với Mẹ chúng ta suy gẫm những mầu nhiệm của Chúa Giêsu.

-   Của Chúa Giêsu? Có phải chúng ta suy gẫm những sự vui thương mừng của Chúa Giêsu không? Hay đúng hơn, phải nói là: mầu nhiệm Nhập thể, Tử nạn và Vinh quang của Chúa Giêsu? (mysteria gaudiosa / dolorosa / gloriosa).

-   Của chúng ta? vui thương mừng là thân phận con người.

Bài chia sẻ hôm nay giới hạn vào điểm cuối cùng này, nghĩa là tìm hiểu ba mối tình của con người. Nên biết là đang  khi Đông phương nói đến “thất tình” (7 tình): Hỷ (mừng), Nộ (giận), Ái (thương), Ố (ghét), Ai (buồn), Cụ (sợ), Dục (muốn), thì thánh Tôma kê ra đến 11 tình (cảm xúc): yêu, ghét, ham, tránh, vui, buồn, hy vọng, thất vọng, sợ, liều, giận. Trong bộ Tổng luận thần học, thánh Tôma dành 27 quaestiones với 132 articuli để bàn về các passiones (cảm xúc, chứ không phải đam mê): đó là những phản ứng của ham muốn (appetitus) đối diện với sự tốt hay sự xấu. Chúng xuất hiện nơi các loài cỏ cảm giác (nghĩa là chung cho động vật và loài người). Tuy nhiên, con người có điểm khác biệt, bởi vì có thể điều khiển các cảm xúc bằng lý trí và ý chí.  Vì thế  thánh Tôma đã phân biệt giữa thương và mến, giữa khoái và vui, giữa đau và buồn.

Vì thời giờ eo hẹp, chúng ta lọc ra ba cảm xúc, đó là yêu, vui, buồn. Yêu là chính, vui buồn là con đẻ của yêu. Như vậy, thứ tự có phần thay đổi: thương – vui – buồn trong cuộc đời.

B. Khái niệm về passio theo thánh Tôma

Passio tự nó gợi lên ý nghĩa “thụ động” (đối lại với actio, hành động). Passio được Tôma xem là "bị động" (passive) bởi vì chúng là những phản ứng tự nhiên, xảy ra khi có một đối tượng bên ngoài tác động vào giác quan. Tuy là “bị động” do nguồn gốc (passio), nhưng sau đó nó lại trở thành“chủ động” (motio) gây ra biến đổi cơ thể (thí dụ: vui thì mỉm cười, buồn thì nhăn nhó, giận thì đỏ mặt, sợ thì tái mét). Trong ngôn ngữ thông thường, passio hàm ngụ sự đau khổ (chẳng hạn như cuộc khổ nạn của Đức Kitô), nhưng trong thực tế, không phải tất cả các passio đều đau đớn: yêu, vui, thích, hy vọng .. cũng là passio. Không lạ gì mà ngày nay trong các tiếng Âu châu, người ta nói đến  emotio, affectus, thay vì  passio.

Chủ thể của các cảm xúc là linh hồn. Nói chính xác hơn, chủ thể của các cảm xúc là linh hồn, không phải xét như là hữu thể thuần thiêng, nhưng xét như là mô thể của con người, nghĩa là linh hồn sống trong thân xác, với những nhận thức và ước muốn chung với động vật. Các cảm xúc thuộc về lãnh vực ước muốn (appetitus) chứ không thuộc về lãnh vực nhận thức (cognitio). Sự ước muốn này nằm ở cấp cảm giác (sensitivus),  khác với ước muốn ở cấp lý trí (rationalis), nghĩa là chưa có sự can thiệp của ý chí.  

Dựa theo đối tượng, các  appetitus được  phân chia làm hai nhóm: concupiscibilisirascibilis, quen dịch là “tham dục” và “nộ dục”.

1/ Nhóm thứ nhất mang tên là concupiscibilis, trong tương quan với đối tượng tốt hay xấu. Nếu tốt thì yêu; nếu xấu thì ghét.  Điều tốt hay điều xấu có thể không hiện diện (thuộc tương lai) hay đã hiện diện (hiện tại). Từ đó sinh ra 4 thứ cảm xúc nữa, đó là: ước ao, vui thích (nếu là tốt), tránh lánh, buồn rầu (nếu là xấu).

2/ Những cảm xúc trên đây xảy ra đối với điều tốt hay xấu bình thường (bonum simpliciter). Nhiều khi hoàn cảnh trở nên cam go , đòi hỏi ta phải tranh đấu để đạt được đối tượng. Từ đó có thêm 5 cảm xúc khác  (thuộc nộ dục) được phân phối tuỳ theo đối tượng là điều tốt hoặc điều xấu, đó là: hy vọng / thất vọng; sợ / liều; giận..

Sau khi đã có khái niệm tổng quát về Passio (cảm xúc, chứ không phải là đam mê), chúng ta dừng lại ở ba điều: Thương – Vui – Buồn. Cả ba đều thuộc tham dục.

-- --I . Thương

Đứng đầu danh sách là “Thương” theo nghĩa là yêu (chứ không phải là đau thương). Yêu được coi là cội nguồn của các cảm xúc). Xét như là khuynh hướng khởi đầu hướng đến điều tốt, tình yêu huy động các cảm xúc khác để chiếm hữu (bằng ước ao) hoặc duy trì điều tốt (vui thích); ngược lại, nếu không đạt được thì đâm ra buồn, rồi sinh ra ghét, và có thể biến thành giận dữ, hoặc tránh né điều ngược lại. Thánh Tôma bàn đến khái niệm, chủ thể và đối thể, nguyên nhân và hậu quả, cũng như đặc điểm của tình yêu. Chúng ta chỉ dừng lại ở hai điểm là: bản chất và hậu quả

            A. Bản chất: Từ ngữ, phân loại

Mặc dù tất cả chúng ta đều đã trải nghiệm tình yêu, nhưng có lẽ ít ai trả lời cách thoả đáng câu hỏi của thi sĩ Xuân Diệu: “Đố ai định nghĩa được tình yêu?”. Một khó khăn không nhỏ bắt nguồn từ những từ ngữ phong phú trong tiếng Việt để diễn tả tình yêu xét như danh từ và xét như động từ. Chúng ta thử lướt qua một vòng thì sẽ thấy:

-          Như danh từ: tình yêu, ái tình, tình thương, lòng thương, thương xót, lòng nhân, nhân ái, bác ái...

-         Như động từ: yêu, thương, mến, yêu thương, quý mến, ái ân... Nên ghi nhận tính cách phức tạp của “thương”, bởi vì nó có thể đi kèm với “yêu” mà cũng có thể đi kèm với “đau”.Ở đây, chúng ta gắn nó với yêu; còn đau buồn thỉ sẽ nói sau.

Thánh Tôma đề ra nhiều cách phân loại tình yêu:

1/ Sự phân cấp thứ nhất dựa trên căn bản của “khuynh hướng” (hay ham muốn: appetitus). Thánh Tôma phân biệt ba cấp:

- Thứ nhất, khuynh hướng “tự nhiên” (appetitus naturalis) nằm trong bản tính của mỗi vật, kể cả vật vô tri giác. Ở cấp này, yêu được hiểu theo nghĩa rộng.

- Thứ hai, yêu xét như là ham muốn kèm theo “giác quan” (appetitus sensitivus), và đây là thứ cảm xúc mà chúng ta đang bàn, và có thể gặp thấy nơi các động vật cũng như nơi loài người.

- Thứ ba, yêu xét như khuynh hướng kèm theo “ý muốn” (appetitus intellectivus); đây là đặc trưng của loài người. Cấp thứ ba có thể bao gồm cấp thứ hai, nhưng không ngược lại.

Xét về từ ngữ, trong tiếng Latinh, amor được áp dụng cho cả ba cấp, còn dilectio dành cho cấp ba, bao hàm một sự lựa chọn của lý trí (có thể dịch là “yêu mến”, hay “quý chuộng”).

2/ Thánh Tôma còn đưa ra một thứ phân loại nữa, với hai cách yêu: “vị kỷ” hay “vị tha”. Đành rằng yêu là gắn bó với điều tốt, nhưng tôi có thể hoặc muốn chiếm hữu điều tốt cho mình, hoăc muốn điều tốt cho người mà mình yêu. Từ đó, phần biệt hai thứ tình yêu: a)  amor concupiscentiae: tình yêu vị kỷ, chiếm đoạt; b) amor benevolentiae: tình yêu vị tha; yêu ai là muốn điều tốt cho họ

3/ Trong thông điệp Deus caritas est, Đức Thánh Cha Benêđictô XVI  lưu ý đến ba từ ngữ khác nhau trong tiếng Hy lạp ám chỉ tình yêu: eros, philia, agape. Ý tưởng này cũng gặp thấy nơi thánh Tôma (ST I-II, q.26, a.5) khi liệt kê bốn cấp của tình yêu: amor, dilectio, caritas, amicitia. Điều thú vị là trên bình diện tự nhiên, tình bạn chỉ có thể diễn ra giữa những người ngang hàng với nhau; nhưng thánh Tôma dám áp dụng tình bạn cho cả tương quan giữa con người với Thiên Chúa nữa, khi định nghĩa đức mến, dĩ nhiên là nhờ ân sủng siêu nhiên (ST II-II, q.23, a.1)

            B. Đặc điểm

1/ Tình yêu trở nên động lực cho cuộc sống như tục ngữ đã nói: “Yêu nhau mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”. Thánh Augustinô thú nhận rằng: “Tình yêu như sức nặng, nó lôi đi đâu thì tôi phải đi theo tới đó”[1], hoặc “yêu đi rồi làm chi cũng được”[2]. Dưới viễn ảnh nhân đức, ta biết rằng đức mến cao quý hơn tát cả các nhân đức khác (x. bài ca đức mến của thánh Phaolô ở chương 13 của thư thứ nhất gửi Corintô. Đức mến là hồn của tất cả các nhân đức.

2/ Yêu và ghét đối nghịch với nhau, bởi vì một bên hướng đến điều tốt, một bên hướng đến điều xấu[3]. Điều tốt có trước điều xấu, vì thế yêu thì có trước ghét, yêu là cội rễ mọi cảm xúc. Điều tốt thúc đẩy hành động nhiều hơn là điều xấu, vì thế người ta yêu điều tốt hơn là ghét điều xấu. Tốt và xấu đối nghịch nhau xét về cùng một điều, chứ không đối nghịch về những điều khác biệt. Có thể nói được rằng ghét là một hệ luận của yêu: vì ta yêu sự sống cho nên ta ghét cái chết; ta ghét kẻ trộm vì ta yêu tài sản của mình. Đôi khi tuy cũng là một đối tượng nhưng có người  yêu có người lại ghét, tùy theo sự lượng định. Thậm chí có thể cùng là môt đối tượng, nhưng một chủ thể có lúc yêu có lúc ghét tuỳ theo hoàn cảnh hoặc trên bình diện khác nhau: ta ghét tội lỗi trên bình diện ý chí nhưng ta lại quyến luyến nó trên bình diện cảm giác. Thậm chí ta có thể ghét tình yêu của mình thay vì yêu nó, bởi vì thấy nó gây hại cho mình. Điều này xảy ra khi chúng ta  yêu người nào hay vật nào, nhưng rồi ta lại nghĩ rằng chúng không xứng với tình yêu và muốn khước từ nó.

-- --II. Sướng và Vui

(Số Thời sự thần học sắp tới sẽ dành cho chủ đề “niềm vui Kitô giáo” để kỷ niệm 50 năm tông huấu “Gaudete in Domino” của ĐTC Phaolô VI). Ở đây, chúng ta chỉ bàn hai điểm: bản chất và đặc điểm

            A. Bản chất

Trong tiếng Việt, dể diễn tả sự vui sướng, chúng ta gặp thấy nhiều từ ngữ, chẳng hạn như: vui, mừng, mừng rỡ, hân hoan, hoan hỉ, hớn hở, sung sướng, thích thú, vui hưởng, khoái lạc.

Trong bản văn gốc Latinh, thánh Tôma sử dụng khá nhiều từ, và việc phiên dịch sang tiếng Việt không dễ dàng, chẳng hạn: delectatio, gaudium, laetitia.

1/ Thánh Tôma phân biệt giữa delectatio gaudium: delectatio ám chỉ sự vui sướng thuộc giác quan (sensibilis); còn gaudium ám chỉ sự vui sướng tinh thần (intellectiva, volitiva). Con người có cả sự vui sướng giác quan cũng như vui sướng tinh thần; động vật chỉ có vui sướng giác quan. Sự khoái cảm mang theo một sự biến đổi nơi thân thể, còn niềm vui thì không. Trên thực tế, luôn có sự trà trộn giữa hai lãnh vực: khi vui thì nét mặt hớn hở  và thân thể nhảy mừng

2/ Dựa theo sự phân biệt chủ thể trên đây, ta có thể thiết lập sự phân chia giữa những đối tượng khả giác (thuộc về tham dục) và những đối tượng tinh thần (thuộc về trí tuệ) của vui sướng. Ta có thể lấy thí dụ về sự vui sướng khả giác là việc ăn uống, truyền sinh; và  thí dụ về sự vui sướng tinh thần khi khám phá điều chân, thiện, mỹ.

            B. Đặc điểm

            1/ Có thể nói được là sự vui sướng là cứu cánh của mọi hoạt động. Ta biết rằng yêu là gắn bó với điều thiện, nhưng đó là một cái nhìn “tĩnh”; nhìn dưới khía cạnh “động”, thì sự vui sướng là tiêu điểm của các hoạt động, nghĩa là các hoạt động hướng đến sự chiếm hữu điều thiện. Một khi biết chắc mình đã đạt được rồi thì ta cảm thấy vui.

2/ Như vậy, cái vui bao hàm một ý tưởng thời gian, như điểm đến của một chuyển động. Đến đây, ta có thể thêm vài nhận xét bổ túc. Ta vui bởi vì đạt được điều mà mình khao khát. Hành trình càng lao đao thì niềm vui càng lớn lao. Nhưng thử hỏi niềm vui kéo dài được bao lâu? Câu trả lời tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố. Thử tưởng tượng một người mong muốn được ăn một bữa thịnh soạn tại một khách sạn đắt tiền. Khi được toại nguyện rồi, anh thấy vui sướng. Nhưng liệu anh còn muốn quay lại nhà hàng đó không, cách riêng khi được ông chủ quảng đại mời suốt một tuần hay một tháng? Có lẽ chỉ sau vài lần là anh ta đâm chán. Nhận xét này đưa ta đến việc suy nghĩ về chiều kích thời gian của vui sướng. Đối với loài thú vật chỉ nhận biết những đối tượng cụ thể thì sự vui sướng không liên quan đến thời gian; chúng được thoả thuê với điều thiện đang chiếm hữu. Còn đối với loài người với những ý tưởng và ước muốn phổ quát, thì chỉ duy đối tượng vô biên mới có khả năng thoã mãn khát vọng của mình. Đây là điều mà thánh Tôma đã khai triển khi bàn về những yếu tố tạo nên hạnh phúc của con người ở ngay thiên mở đầu của phần luân lý học: luân lý hướng về hạnh phúc.

-- --III. Khổ và Buồn

Mặc dù kể ra 11 cảm xúc, nhưng thánh Tôma không bàn ngang nhau: dài nhất là buồn (25 articuli), thứ hai là vui (24 articuli). Chúng ta nói vắn tắt  ba điểm: bản chất; hậu quả, chữa trị.  

            A. Bản chất

Trong ngôn ngữ hằng ngày, chúng ta đã quen thuộc với những cặp đôi: vui-buồn; sướng – khổ. Nếu chú ý một chút, chúng ta dễ nhận rằng “vui” không đồng nghĩa với “sướng”, cũng như “buồn” không đồng nghĩa với “khổ”.  Tiếng Việt (và Hán Việt) có rất nhiều từ ngữ để diễn tả cái khổ và cái buồn, đó là chưa kể cái đau.

- Khổ: khổ cực, khổ đau, khổ ải, khổ nhục, khốn khổ, khổ tâm, gian khổ, thống khổ.

- Buồn: buồn rầu, buồn sầu, buồn phiền, buồn bã, buồn thảm, buồn chán, buồn tẻ.

- Đau: đau khổ, đau buồn, đau đớn, đau xót. Cái đau không chỉ diễn tả một trạng thái của tâm hồn mà còn của thể xác nữa. Có lẽ con chó đau khi bị đánh, nhưng nó không biết buồn!

Thánh Tôma phân biệt giữa dolor (đau) và tristitia (buồn). Sự khác biệt có thể vạch ra như thế này:

- Đau có thể ảnh hưởng cả xác và hồn; buồn chỉ cảm thấy bởi linh hồn.

- Đau được gây ra bởi sự xấu hiện diện thực sự, nghĩa là trong hiện tại; buồn có thể được gây ra bởi một sự xấu thực sự trong hiện tại, hoăc bởi một sự xấu thuộc về quá khứ (mà ta nhớ lại bằng ký ức) hoặc do trí tưởng tượng gợi lên (hiện chưa có, hoặc sẽ chẳng bao giờ có).

            B. Hậu quả

Thánh Tôma kể ra bốn điều dựa theo tư tưởng của cổ nhân. Những hậu quả này có thể thuộc lãnh vực tâm lý hay lãnh vực sinh lý.

1/ Hậu quả thứ nhất ảnh hưởng đến lý trí (mất khả năng học hành). Việc nghiên cứu học hành đòi hỏi sự chú ý đến đề tài. Thế nhưng sự buồn phiền thu hút linh hồn vào cảm nghiệm đang trải qua, vì thế nó ngăn cản sự tập trung vào những đối tượng khác. Tuy nhiên, như sẽ thấy trong mục tiếp theo, sự miệt mài suy gẫm cũng có thể làm giảm bớt sự đau đớn

2/ Hậu quả thứ hai thuộc lãnh vực tâm linh: cái buồn có ảnh hưởng đến tình cảm. Khi vui thì ta thấy trái tim nở ra, tràn đầy nhiệt huyết; khi buồn thì co thắt lại, khiến cho con người đễ sinh trầm cảm.

3/ Cài buồn làm suy giảm mọi hoạt động bên ngoài. Nếu sư vui thích thúc đẩy hoạt động, thì sự đau buồn làm suy giảm nghị lực tâm linh, và kể cả nghị lực thể lý. Không thiếu những trường hợp người nghe tin buồn thì ngất xỉu. Có thể giải thích như thế này: các cảm xúc tích cực (yêu thương, ước muốn, vui thích, hy vọng) thì thúc đẩy chúng ta hướng đến đối tượng (sự thiện); còn các cảm xúc tiêu cực (ghét, tởm, buồn) khiến chúng ta xa tránh đối tượng (sự xấu), và co cụm lại.

4/ Cái buồn gây tổn hại cho sức khoẻ của thân thể. Theo thánh Tôma, sự buồn phiền là cảm xúc làm hại cho sức khoẻ nhất. Kinh nghiệm cho thấy những gian truân khổn khổ trên đời dễ ghi lại dấu ấn trên con người, chẳng hạn như người xanh xao, tóc bạc, đôi khi sớm dẫn đến cõi chết.

Chúng ta phân tích những hậu quả  đối với trí tuệ, tâm linh, nghị lực, sức khoẻ; trên thực tế, những yếu tố quyện lẫn với nhau. Dĩ nhiên mức độ những hậu quả này không đồng nhất cho tất cả mọi người, nhưng tuỳ thuộc vào tính tình giáo dục của mỗi chủ thể. Ngoài ra, sự đau buồn cũng có thể gây ra thù hận oán ghét những ai đã gây ra sự đau buồn cho mình.

5/ Một hậu quả khác của sự đau buồn là khóc lóc, rên siết; nhưng chúng tôi dành điều này cho mục sắp tới bàn về sự chữa trị: khóc lóc là một hệ quả của đau buồn, nhưng những dòng lệ cũng có thể làm vơi sự đau buồn.

            C. Phương dược chữa trị

Khác với những cảm xúc khác, khi bàn về sự buồn, thánh Tôma đã dành thêm một chương (quaestio 38) để bàn  về 5 phương thế để làm giảm bớt đau buồn. Nên biết là những phương thế này không do ngài sáng chế ra, nhưng rút từ kinh nghiệm của tiền nhân, và ngài tìm cách giải thích lý do. Đó là:

1/ Nhờ một sự vui sướng (“dĩ độc trị độc”).

2/ Khóc lóc rên van

3/ Sự thông cảm của bạn hữu

4/ Chiêm ngắm chân lý

5/ Đi ngủ và đi tắm

Đây là phương thế hữu hiệu mà y học cổ truyền cũng như tâm lý học hiện đại đều nhìn nhận. Nó giúp cho thân thể được thư giãn. Thánh Tôma nói rằng, “bất cứ điều gì khôi phục bản chất cơ thể về trạng thái chuyển động quan trọng của nó, đều đối lập với nỗi buồn và làm nó yên tâm.” Việc tắm và ngủ “đưa bản chất trở lại trạng thái bình thường.”

 Kết luận: Những cảm xúc của Chúa Giêsu

Ở nhập đề, tôi đã đặt câu hỏi: Khi suy gẫm mầu nhiệm Mân côi, chúng ta suy gẫm các mùa vui-thương-mừng của ai? Trong bài này, chúng ta đã bàn về vui-thương-mừng trong đời người. Để kết thúc, chúng ta nói ít lời về vui-thương-mừng của Chúa Giêsu.     

Các sách Tin mừng thuật lại những lần Đức Giêsu khóc và vui, bàng hoàng và sợ hãi, nhất là khi đối diện với cái chết. Ngoài ra, cũng cần ghi nhận những đoạn nói đến Chúa động lòng thương xót, và nhất là giận.  Chúng ta dừng lại ở 2 điểm theo thánh Tôma: 1/ Chúa Giêsu có cảm xúc. 2/ Ý nghĩa của những cảm xúc của Chúa Giêsu

1/ Chúa Giêsu có cảm xúc

Nhiều giáo phụ chịu ảnh hưởng của phái Khắc kỷ cho rằng Người đã đạt đến tình trạng apatheia cho nên không có cảm xúc; cùng lắm các sự đau khổ chỉ chạm đến thân xác của Người mà thôi, chứ không chạm đến linh hồn, ví như một kẻ đã dùng thuốc mê. Một tác giả điển hình của chủ trương này là thánh Hilariô, kiện tướng chống lại lạc giáo Ariô và gây ảnh hưởng lớn cho hậu thế. Nên biết là thánh Tôma không chấp nhận ý kiến đó.

  Khi áp dụng danh từ passio cho Chúa Giêsu, nó được hiểu theo hai nghĩa. (a) Một là cuộc khổ nạn của Người, được hiểu về sự đau khổ trong thân xác (bị đánh đập, vác khổ giá); thánh Tôma gọi là passio corporalis.  (b) Hai là những cảm xúc trong linh hồn (passio animalis)[4]. Sự đau khổ của thân xác nơi Đức Giêsu là điều không thể chối cãi;  còn các cảm xúc trong linh hồn thì sao? Có nhiều giáo phụ, do ảnh hưởng của trường phái Khắc kỷ, cho rằng Chúa Giêsu không có những cảm xúc khả giác, bởi vì Người đã làm chủ các hoạt động nội tâm. Quan điểm của thánh Tôma thế nào?

Chúa Giêsu có một thân xác và một linh hồn của con người. Linh hồn ấy có phần trí tuệ và phần cảm giác. Chúa Giêsu có ước muốn cảm giác (appetitus sensualis) bao gồm tham dục và nộ dục[5] và ước muốn trí tuệ (appetitus intellectivus), tức là ý chí (voluntas). Vì thế Người có các cảm xúc. Tuy nhiên, theo thánh Tôma, tình trạng cảm xúc nơi Đức Kitô khác với chúng ta ở ba điểm: về đối tượng, về nguồn gốc, về hậu quả[6]. Vấn đề được bàn trong III, qq.14-15.

(a) Xét về đối tượng, các cảm xúc của Đức Kitô chỉ hướng về điều thiện phù hợp với lý trí và ý chí; Đang khi ở nơi chúng ta, các cảm xúc thường nghiêng về điều ngang trái.

(b) Xét về nguồn gốc, các cảm xúc luôn hoà hợp với lý trí (consequens), còn nơi chúng ta, các cảm xúc thường đi trước (antecedens) phán đoán của lý trí.

(c) Xét về hậu quả, các cảm xúc nơi chúng ta thường dừng lại ở bình diện cảm giác và đôi khi lôi kéo lý trí xuống đó, còn nơi Đức Kitô, các cảm xúc không dừng lại ở bình diện giác quan nhưng luôn tùng phục sự chỉ đạo của lý trí, chứ không bao giờ lấn át hoạt động của lý trí.

Do sự khác biệt giữa cảm xúc nơi Đức Kitô và chúng ta, nên đôi khi thánh Tôma sử dụng thuật ngữ propasssio (có người dịch là “bán cảm xúc), lấy từ  thánh Hiêrônimô, - tuy nguồn gốc của nó là trường phái Khắc kỷ. Đức Giêsu có cảm xúc nhưng chúng không hề vượt quá sự kiểm soát của lý trí.

2/ Những hệ luận

Việc nghiên cứu các cảm xúc của Đức Giêsu mang theo ít là hai hệ luận, một là về tín lý, hai là về tâm linh.

1/ Về tín lý, sự hiện diện của các cảm xúc nơi Đức Giêsu nêu bật nhân tính của Người: Người là Thiên Chúa thật và là người thật. “Người giống với chúng ta trong mọi sự, chỉ trừ tội lỗi” (Hr 7,26). Người mang lấy các cảm xúc, đồng thời Người cũng chữa lành chúng.

2/ Về tâm linh, Người trở nên gương mẫu cho chúng ta (xc. 1 Pr 2,21), giúp chúng ta khám phá con người “thật”, theo nghĩa là con người chân chính đã được giải thoát khỏi tội lỗi, khỏi các dục vọng. Nhờ các nhân đức và ân huệ Thánh Linh, chúng ta có khả năng điều khiển các cảm xúc, chứ không để chúng lộng hành. Đức Kitô là Thầy, là Đường dẫn chúng ta đến hạnh phúc[7]. Người cho chúng ta thấy điều kiện của con người trong tương lại, con người trở lại với tình trạng công chính nguyên thuỷ trước khi nguyên tổ phạm tội.

Ngoài ra, nếu Chúa Giêsu đã sống trọn thân phận con người, bao gồm các cảm xúc, thì chúng ta cũng phải học cách “học làm người” nhờ các cảm xúc. Các cảm xúc không chỉ là “dịp tội” mà còn là “môi trường” để thực hành nhân đức.

-------------

Bài này trích từ cuốn sách “Thánh Tôma với đời sống tình cảm”, Học viện Đa Minh Gò vấp 2015

Tình cảm trong cuộc sống

Triết học cổ điển định nghĩa con người là “động vật có lý trí”, ra như đặt căn tính của con người nơi hoạt động trí tuệ. Vì thế trong xã hội, giới trí thức được xếp hàng đầu (“nhất sĩ nhì nông”). Trong bối cảnh này, tình cảm bị coi rẻ hoặc được dành riêng cho nữ giới (xét vì nam tính được chứng tỏ qua sức mạnh hoặc trí óc).

Tuy nhiên, tâm lý học cho thấy rằng tình cảm mới thực là then chốt cho cuộc sống. Tình cảm ảnh hưởng rất nhiều đến tính tình và sức khoẻ, và cũng là bậc thang đánh giá con người: đại phu hay ti tiện.

1/ Trên bình diện tâm lý và sinh lý

Người không có xúc cảm thì không còn là người bình thường nữa, mà chỉ là người bị bệnh tâm thần hoặc bị chứng vô cảm mà thôi. Nhiều nghiên cứu đă cho thấy sự “đói tình cảm” cũng ảnh hưởng sâu sắc tới tâm lý và sức khỏe như là sự “đói lương thực” vậy. Nơi những con người sống trong hoàn cảnh thiếu thốn tình cảm, dễ xuất hiện chứng vô cảm, buồn chán, sợ hãi, dễ bị kích động, cáu gắt, hung dữ. Khả năng hoạt động tâm lý cũng bị hạn chế, kém thông minh, thiếu ý chí, vv.

2/ Tình cảm giữ vai trò quan trọng trong hoạt động của con người. Nó làm tăng nghị lực, tăng sức mạnh, củng cố niềm tin trong hoạt động. Một con người khô khan, dửng dưng, thờ ơ với tất cả mọi công việc thì không thể đề ra và giải quyết những nhiệm vụ quan trọng, không có khả năng đạt tới những thắng lợi to lớn. Vì vậy sự thành công của hoạt động thường có sự góp phần của tình cảm.

3/ Vì thế, mức độ trưởng thành của con người được đánh giá qua sự trưởng thành tình cảm: họ có khả năng làm chủ cảm xúc đến mức nào? Họ sống các tương quan với tha nhân ra sao? Họ chỉ biết lấy cái tôi làm trung tâm vũ trụ, hay là biết quên mình để phụng sự lý tưởng cao cả hơn?

Điều này càng đúng hơn nữa dưới nhãn quan Kitô giáo, khi tình cảm được nâng lên cao nhờ đức mến (agape). Đức mến là tiêu chuẩn đo lường giá trị các ý tưởng hành động của con người, như thánh Phaolô đã viết trong thư thứ nhất gửi các tín hữu Côrintô:

Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được nói ơn tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt mà không có đức mến thì cũng chẳng ích gì cho tôi. Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, chịu đựng tất cả. (1Cr 13,1-7)

Thực ra nói đến đức mến thì chúng ta đã bước sang một lãnh vực khác rồi: đây không còn là cảm xúc tự nhiên nữa nhưng là một nhân đức và một nhân đức siêu nhiên. Tuy nhiên điều này muốn cho thấy rằng giá trị của một con người không ở chỗ “biết nhiều, nói nhiều, làm nhiều” cho bằng “yêu nhiều”. Dựa trên đoạn Tin mừng theo thánh Matthêu (25,31 tt), thánh Gioan thánh giá nhận định rằng: “Vào lúc kết thúc cuộc đời, bạn sẽ được xét xử dựa theo tình yêu” (A la tarde de la vida te examinarán en el amor)[8].



[1] “Pondus meum amor meus, eo feror quocumque feror” (Confessiones 13, 9: PL 32, 849).

[2] “Dilige, et quod vis fac” (Tractatus 7 in Epistolam Ioannis ad Parthos, 8: PL 35,2033)

[3] Tác giả sách Summa Theologiae  dành 3 chương với 14 mục cho Yêu, đang khi Ghét chỉ được 1 chương và 6 mục

[4] ST III, q.15, a.3

[5] ST III, q.18, a.2.

[6] ST III, q.15, a.4

[7] ST III, q.46, a.3.

[8] Trích dẫn ở sách GLCG số 1022. Sau đây là một hình thức khác để diễn tả bài ca đức ái: “Nếu không có tình yêu ... bổn phận khiến người ta dễ nóng giận, trách nhiệm đẩy con người đến chỗ bất nhã, công bằng làm cho con người đâm ra tàn nhẫn, sự thật biến người ta thành kẻ ưa soi mói, sự khôn ngoan dẫn dắt bạn đến chỗ láu cá, sự đon đả biến con người thành kẻ giả dối, sự am hiểu đẩy bạn trở thành kẻ cố chấp, quyền lực khiến bạn trở thành kẻ áp bức, danh tiếng làm bạn trở thành kẻ kiêu ngạo, của cải làm con người trở nên tham lam, lòng tin biến bạn thành kẻ cuồng tín... trên đời này bạn không là gì cả.”

Chia sẻ