**********
I
Những tu sĩ dấn thân vào các công việc của đời sống hoạt động không làm mất quan niệm đích thực về đời sống tu trì. Vì đời tu trì hướng tới sự trọn hảo của đức ái, bao gồm tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Đời sống chiêm niệm nêu bật tình yêu đối với Thiên Chúa, qua việc chuyên lo phụng sự Ngài. Cũng như đức ái yêu thương tha nhân vì Chúa thế nào, thì việc phục vụ tha nhân cũng có giá trị như phục vụ Thiên Chúa, như đã chép trong Tin mừng Mátthêu (25,40): “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Do đó, bởi vì việc phục vụ tha nhân cuối cùng cũng quy hướng về Thiên Chúa, cho nên được mô tả là như là hy lễ, như lời đã chép trong thư Hípri (13,16): “Anh em chớ quên làm việc từ thiện, giúp đỡ lẫn nhau, vì Thiên Chúa ưa thích những hy lễ như thế”. Đặc trưng của nhân đức thờ phượng là dâng hy lễ lên Thiên Chúa, cho nên có thể thiết lập những dòng chuyên lo các việc hoạt động.
II
Các tu sĩ dấn thân vào các công việc của đời sống hoạt động thì không bị tước mất hoa trái của đời sống chiêm niệm.
Sự trọn hảo của đời sống tu trì cốt ở việc chiêm niệm những thực tại thần linh, vì như ông Dionysiô đã nói: “Họ được gọi là tu sĩ bởi vì họ thờ phượng và phục vụ Thiên Chúa một cách thuần túy, cũng như vì sự liên kết với nhau trong việc chiêm niệm, trong sự kết hiệp thiên hóa và sự trọn lành được Thiên Chúa yêu thích”. Nhưng việc thờ phượng và phục vụ Thiên Chúa cũng hiện hữu trong những việc làm của đời sống hoạt động, qua đó một người phục vụ người anh chị em của mình vì Chúa. Điều này cũng xảy ra trong đời ẩn tu, không phải bởi vì họ không tiếp xúc với người đời, nhưng vì họ chuyên chăm vào việc phục vụ Thiên Chúa mà thôi. Còn những tu sĩ dấn thân vào hoạt động vì Thiên Chúa, thì sự hoạt động trào ra từ việc chiêm ngắm những thực tại thánh thiêng. Vì thế họ không hoàn toàn đánh mất những hoa trái của đời chiêm niệm.
III
Các tu sĩ sống đời hoạt động thì không ở trong đời. Người ta có thể ở trong đời bằng hai cách, bằng thể xác hay bằng tinh thần, bằng sự hiện diện của thân xác hoặc bằng sự quyến luyến của con tim. Vì thế, Chúa đã nói với các môn đệ: “Thầy đã chọn anh em từ giữa thế gian” (Ga 15, 19), nhưng khi nói về họ với Cha của Người, thì Người lại nói: “Những kẻ này ở trong thế gian, và con về với Cha” (Ga 17,11).
Các tu sĩ bận rộn với công việc của đời sống hoạt động thì ở trong thế gian xét về thân xác, nhưng không xét về tinh thần. Bởi lẽ khi họ bận rộn với bao nhiêu việc bên ngoài, thì không phải để tìm kiếm điều gì của thế gian, nhưng là để phụng sự Thiên Chúa. “Họ hưởng dùng của cải đời này như là không hưởng dùng” (1Cr 7, 31) theo lời thánh Phaolô. Do đó thánh Giacôbê, sau khi tuyên bố rằng (1,27): “Lòng đạo đức tinh tuyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha, là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân,” đã nói thêm: “và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian này”, tức là không nên để cho trái tim dính bén với những sự việc của thế gian.
(Summa Theol. II-II, q. 188, a. 2)