**********
Đời tu trì có thể nhằm tới đời sống hoạt động hoặc đời sống chiêm niệm. Trong số những công tác của đời sống hoạt động, những việc chính liên quan đến việc cứu rỗi linh hồn, tựa như giảng thuyết và những công tác tương tự. Việc nghiên cứu học hành thích hợp với đời tu vì ba danh nghĩa.
1. Trước hết, dưới danh nghĩa đời sống chiêm niệm, việc học hành mang đến hai ích lợi. a) Cách trực tiếp bằng cách khai sáng cho lý trí. Vì đời sống chiêm niệm chủ yếu hướng tới việc chiêm ngắm những điều thần linh, và chúng ta hướng tới điều đó nhờ vào việc học hành. Vì thế người công chính được ca ngợi bởi vì “Người ấy sẽ ngày đêm suy gẫm Luật pháp của Chúa” (Tv 1,2) và “Người ấy truy tầm lẽ khôn ngoan nơi mọi bậc lão thành, không ngừng nghiên cứu các sấm ngôn” (Hc 39, 1). b) Cách gián tiếp, bằng cách loại bỏ những trở ngại cho việc chiêm niệm, cụ thể là những sai lầm mà việc chiêm niệm những điều thiêng liêng thường gây ra cho những người không biết Kinh Thánh. Vì vậy chúng ta đọc thấy trong tác phẩm “Các cuộc đàm thoại của các sư phụ trên sa mạc”, viện phụ Sérapion do tính đơn sơ đã rơi vào sự sai lầm của thuyết nhân hình, áp dụng cho Thiên Chúa hình thể con người. Về điểm này, thánh Grêgôriô nhận xét: “Một số người tìm kiếm trong sự chiêm niệm điều vượt qua khả năng của mình, dấn thân vào các học thuyết tai hại, và thay vì trở nên những môn đệ khiêm nhượng của chân lý, họ đã trở nên những thầy dạy của sự sai lầm.” Do đó có lời ghi chép trong sách Huấn ca (2,3): “Tôi đã quyết định bắt thân xác tôi kiêng cữ rượu, ngõ hầu đem tinh thần của tôi vào sự khôn ngoan cùng tránh sự rồ dại".
2. Thứ đến, sự nghiên cứu học hành cần thiết cho các Dòng được sáng lập để giảng dạy và thi hành các tác vụ tương tự. Thánh Phaolô đã viết về Giám mục, mà chức vụ bao hàm các công việc ấy, như sau: “Ngài phải nắm giữ giáo điều chắc chắn chiếu theo đạo lý, để có thể vừa khuyên răn rập theo đạo lý thuần lương, vừa biện bác những người chống đối” (Tt 1,9). Người ta đưa ra thắc mắc rằng các Tông đồ đã được sai đi giảng dạy mà không cần học hành; nhưng thánh Giêrônimô trong thư gửi cho Paulinus đã nói: “tất cả những gì mà người khác phải học hỏi và suy tư, thì Chúa Thánh Thần linh ứng cho họ.”
3. Thứ ba, việc nghiên cứu học hành thích hợp với các tu sĩ vì ích lợi cho những điều kiện cốt yếu của đời tu.
Tính thiếu tiết độ gặp ở đây vị thuốc công hiệu; thánh Giêrônimô đã viết cho đan sĩ Rusticus: “Anh hãy ưa thích nghiên cứu Kinh thánh và anh sẽ không yêu mến các tật xấu của xác thịt.” Quả thế, nó hướng tinh thần khỏi những tư tưởng về những sự xáo trộn này, và nó hành xác bằng sự lao lực nó gây ra, theo lời ghi chép trong sách Huấn ca (31,1): “Những buổi canh thức của tính lương thiện làm kiệt quệ xác thịt”.
Việc học hành cũng hữu hiệu trong việc phá hủy lòng khao khát của cải. Do đó, có lời ghi chép trong sách Khôn ngoan: “Ở gần nó, tôi coi các của cải không ra gì cả.” (Kn 7, 8.) Và ở nơi khác (1Mcb 12,9) nói: “Đối với chúng ta, chúng ta đã không cần đến tất cả điều đó một tí nào cả, bởi vì để an ủi chúng ta thì đã có sẵn các sách Kinh thánh trong tay chúng ta.”
Cuối cùng, việc nghiên cứu học hành cách nghiêm túc có giá trị tập luyện đức vâng lời; điều đó đã khiến thánh Âu tinh phải thốt lên: “Thật là ngược đời: không muốn tuân theo điều mình đọc được, đang khi say mê đọc sách?"
Vì vậy, thành lập một Dòng tu chuyên lo nghiên cứu học hành là điều hoàn toàn hợp pháp.
(Summa Theol. II-II, q.188, a.5)