TÔNG HUẤN
CỦA ĐỨC THÁNH CHA LÊ-Ô XIV
GỬI TẤT CẢ ANH CHỊ EM KI-TÔ HỮU
VIẾT VỀ LÒNG YÊU MẾN ANH CHỊ EM NGHÈO
*********
NỘI DUNG
DẪN NHẬP (1-3)
CHƯƠNG MỘT: ĐÔI LỜI THIẾT YẾU (4-15)
----Thánh Phan-xi-cô
----Tiếng kêu của người nghèo
----Định kiến ý thức hệ
CHƯƠNG HAI: THIÊN CHÚA CHỌN NGƯỜI NGHÈO (16-34)
----Lựa chọn người nghèo
----Đức Giê-su, Đấng Mê-si-a nghèo khó
----Lòng thương xót đối với người nghèo trong Kinh Thánh
CHƯƠNG BA: GIÁO HỘI CHO NGƯỜI NGHÈO (35-81)
----Sự giàu sang đích thực của Hội Thánh
----Các Giáo phụ và người nghèo
----Thánh Gio-an Kim Khẩu
----Thánh Âu-tinh
----Việc chăm sóc người đau yếu
----Việc chăm lo cho người nghèo trong nếp sống đan tu
----Trả tự do cho các tù nhân
----Những chứng tá về phúc nghèo khó Tin Mừng
----Hội Thánh và việc giáo dục cho người nghèo
----Đồng hành với anh chị em di dân
----Bên cạnh những người bé nhỏ nhất giữa chúng ta
----Các phong trào giáo dân
CHƯƠNG BỐN: MỘT LỊCH SỬ TIẾP DIỄN (82-102)
----Thế kỷ của Học Thuyết Xã hội của Hội Thánh
----Cấu trúc tội lỗi tạo ra nghèo đói và bất bình đẳng cực độ
----Người nghèo như những chủ thể
CHƯƠNG NĂM: THÁCH THỨC KHÔN NGUÔI (103-121)
----Người Sa-ma-ri nhân hậu tái xuất
----Một thách thức không thể tránh cho Hội Thánh hôm nay
----Việc bác ái hôm nay
***********
1. “Ta đã yêu mến ngươi” (Kh 3,9). Chúa nói những lời này với cộng đoàn Ki-tô hữu mà, khác với một số cộng đoàn khác, cộng đoàn này không có quyền thế hay của cải, lại bị đối xử bằng bạo lực và khinh miệt : “tuy ngươi có ít thế lực... Ta sẽ bắt chúng đến phủ phục dưới chân ngươi” (Kh 3,8-9). Đoạn văn này gợi nhớ đến lời kinh Magnificat của Đức Ma-ri-a : “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,52-53).
2. Tuyên ngôn tình yêu “Ta đã yêu mến ngươi” được trích từ sách Khải Huyền, phản ánh mầu nhiệm bất tận mà Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã suy niệm trong Thông điệp Dilexit Nos về tình yêu nhân loại và tình yêu Thiên Chúa trong tâm hồn Đức Giê-su Ki-tô. Ở đó, chúng ta thấy Đức Giê-su đã tự đồng hóa mình với “những tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội”, và qua tình yêu được trao ban cho đến cùng, Người khẳng định phẩm giá của mọi con người, đặc biệt là khi họ “yếu đuối, bị khinh thường hoặc đang chịu đau khổ.” [1] Chiêm ngắm tình yêu của Đức Ki-tô, “chúng ta cũng được mời gọi biết quan tâm hơn đến những đau khổ và nhu cầu của người khác, được củng cố trong nỗ lực tham gia vào công trình giải thoát của Người như những khí cụ để lan toả tình yêu ấy.” [2]
3. Vì lý do này, tiếp nối với Thông điệp Dilexit Nos, trong những tháng cuối đời, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã dọn một Tông huấn bàn về việc Hội Thánh chăm lo cho người nghèo, và người đặt tên cho văn kiện đó là Dilexi Te (Ta đã yêu mến ngươi), như thể chính Đức Ki-tô nói với từng người nghèo rằng : “Tuy ngươi ít thế lực”, nhưng “Ta đã yêu mến ngươi” (Kh 3,9). Tôi hân hoan nhận lại văn kiện này làm của mình và thêm vào một vài suy tư để công bố ngay từ đầu triều đại giáo hoàng của tôi, bởi tôi cùng chia sẻ ước nguyện với vị tiền nhiệm kính yêu rằng tất cả các Ki-tô hữu đều nhận ra mối tương quan mật thiết giữa tình yêu của Đức Ki-tô và lời mời gọi chăm sóc người nghèo. Tôi cũng tin rằng việc nhấn mạnh con đường nên thánh này là điều thiết yếu, bởi “trong lời mời gọi nhận ra Đức Ki-tô nơi người nghèo và đau khổ, chúng ta thấy được chính thánh tâm Người, những cảm xúc và chọn lựa sâu xa nhất của Người, điều mà mọi thánh nhân đều mong muốn noi theo.” [3]
4. Các môn đệ Đức Giê-su đã phê bình người phụ nữ đổ dầu thơm quý giá lên đầu Người. Họ nói : “Sao lại phí của như thế ? Dầu đó có thể bán được nhiều tiền mà đem cho người nghèo.” Tuy nhiên, Chúa đã đáp lại họ : “Người nghèo thì lúc nào anh em cũng có với anh em ; còn Thầy, thì không phải lúc nào anh em cũng có đâu !” (Mt 26,8-9.11). Người phụ nữ ấy đã nhận ra nơi Đức Giê-su Đấng Mê-si-a khiêm hạ và chịu đau khổ, Đấng mà cô có thể dâng trọn tình yêu. Cử chỉ xức dầu ấy hẳn đã đem lại biết bao an ủi cho chính phần đầu mà chỉ ít ngày nữa sẽ bị vòng gai đâm thâu. Dẫu chỉ là hành động nhỏ bé, nhưng những ai từng đau khổ đều biết rằng một cử chỉ trìu mến nhỏ bé cũng có thể mang lại niềm an ủi lớn lao như thế nào. Đức Giê-su thấu hiểu điều này và nói với các môn đệ rằng hành động của cô sẽ được ghi nhớ mãi : “Tin Mừng này được loan báo bất cứ nơi nào trong khắp thiên hạ, thì người ta cũng sẽ kể lại việc cô vừa làm mà nhớ tới cô” (Mt 26,13). Sự đơn sơ của hành động ấy nói lên biết bao điều. Dù nhỏ bé đến đâu, vẫn không một dấu chỉ yêu thương nào bị quên lãng như chính Chúa đã không quên lãng, nhất là khi nó được dành cho những ai đang đau khổ, cô đơn hay thiếu thốn.
5. Tình yêu dành cho Chúa cũng làm một với tình yêu dành cho người nghèo. Chính Đức Giê-su nói với chúng ta như vậy : “Người nghèo thì lúc nào anh em cũng có với anh em” (Mt 26,11), Người cũng hứa với các môn đệ : “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Chúng ta cũng suy gẫm lời Người nói : “mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Đây không chỉ đơn thuần là lòng tốt của con người, mà là một mặc khải : tiếp cận với những người bé mọn và yếu thế là cách thức căn bản để gặp gỡ Thiên Chúa trong dòng lịch sử. Chúa vẫn tiếp tục ngỏ lời với chúng ta qua người nghèo.
6. Giải thích về việc chọn tên hiệu giáo hoàng, Đức Phan-xi-cô đã kể lại rằng, sau cuộc bầu chọn, có Đức Hồng Y bạn đã ôm chào người và nói : “Đừng quên người nghèo !” [4] Đây cũng chính là lời kêu gọi mà các vị lãnh đạo Hội Thánh đã ngỏ với Thánh Phao-lô khi người lên Giê-ru-sa-lem để xác nhận sứ vụ của mình (x. Gl 2,1-10). Nhiều năm sau, Thánh Tông đồ vẫn tái khẳng định rằng đó thực sự là “điều mà tôi vẫn gắng làm” (Gl 2,10). Chăm lo cho người nghèo cũng là mối bận tâm lớn lao của Thánh Phan-xi-cô Át-xi-di : qua nhân vị của một người phong cùi, chính Đức Ki-tô đã ôm lấy Phan-xi-cô và biến đổi cuộc đời người. Đến tận hôm nay, Thánh Phan-xi-cô Hèn Mọn Át-xi-di vẫn tiếp tục truyền cảm hứng cho chúng ta qua gương sáng nổi bật của người.
7. Tám thế kỷ trước, Thánh Phan-xi-cô đã khơi dậy cuộc canh tân theo Tin Mừng giữa các Ki-tô hữu và trong xã hội ở thời của người. Giàu có và tự tin, người thanh niên Phan-xi-cô đã bị đánh động và biến đổi khi trực diện tiếp xúc với người nghèo và bị xã hội ruồng bỏ. Câu chuyện cuộc đời của người tiếp tục lôi cuốn tâm trí và tâm hồn những người tin, và cả biết bao nhiêu người chưa tin. Cuộc đời ấy đưa “lịch sử sang trang.” [5] Bước tiến xa hơn trên cùng con đường này được Công đồng Va-ti-ca-nô II thực hiện, như Thánh Giáo hoàng Phao-lô VI đã chỉ ra khi nói rằng “dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu năm xưa đã trở thành mẫu mực cho linh đạo của Công đồng.” [6] Tôi xác tín rằng lựa chọn ưu tiên dành cho người nghèo là nguồn mạch của sự canh tân ngoại thường cả cho Hội thánh lẫn xã hội, chỉ khi nào chúng ta có thể rũ bỏ được việc tự cho mình là trung tâm và mở lòng lắng nghe tiếng kêu than của họ.
8. Đoạn Kinh Thánh Thiên Chúa tỏ mình ra cho ông Mô-sê trong bụi gai đang cháy có thể được dùng làm mốc điểm khởi đầu cho nỗ lực này. Ở đó, Thiên Chúa phán : “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng... Bây giờ, Ngươi hãy đi ! Ta sai ngươi” (Xh 3,7-8.10). [7] Như thế, Thiên Chúa bày tỏ mối bận tâm của Người đối với các nhu cầu của người nghèo khổ : “con cái Ít-ra-en kêu lên ĐỨC CHÚA, ĐỨC CHÚA liền cho xuất hiện một vị cứu tinh” (Tl 3,15). Khi lắng nghe tiếng kêu của người nghèo, chúng ta được mời gọi tiến vào cung lòng Thiên Chúa, Đấng luôn quan tâm đến nhu cầu của con cái Mình, cách riêng những ai ở trong tình cảnh túng thiếu hơn cả. Nếu chúng ta cố tình làm ngơ trước tiếng kêu ấy, người nghèo có thể sẽ kêu lên Chúa mà tố cáo chúng ta, và chúng ta sẽ vừa phải mang tội (x. Đnl 15,9) vừa quay lưng lại với chính thánh tâm Thiên Chúa.
9. Suốt dòng lịch sử loài người, tình cảnh của người nghèo là tiếng kêu không ngừng thách thức cuộc sống, xã hội, các hệ thống chính trị và kinh tế của chúng ta và nhất là Hội Thánh. Trên các khuôn mặt hằn lên thương tích của người nghèo, chúng ta thấy những con người vô tội đang chịu khổ nạn, đấy là cuộc khổ nạn của chính Đức Ki-tô. Đồng thời, có lẽ chúng ta nên nói cho chính xác hơn về “nhiều khuôn mặt” của người nghèo và cảnh nghèo, vì đây là đúng là một hiện tượng đa diện. Thật vậy, có nhiều hình thức nghèo : cái nghèo của những người thiếu phương tiện vật chất để sinh sống, cái nghèo của những người bị gạt ra bên lề xã hội và chẳng có phương cách nào để lên tiếng bênh vực phẩm giá và khả năng của mình ; cái nghèo luân lý và tinh thần ; cái nghèo của những ai nhận thấy mình đang ở trong tình cảnh yếu kém hay mong manh xét cả chiều kích cá nhân lẫn xã hội ; cái nghèo của những ai không có quyền lợi, không có chỗ đứng, không có tự do.
10. Theo nghĩa này, có thể nói rằng việc dấn thân cho người nghèo và việc loại bỏ các nguyên nhân xã hội và cấu trúc gây nên đói nghèo đã có được tầm quan trọng trong những thập niên gần đây tuy vẫn còn chưa đủ. Nguyên nhân là vì các xã hội của chúng ta thường ủng hộ các tiêu chí mang dấu vết của vô số những điều bất bình đẳng để định hướng đời sống và hoạt động chính trị. Do đó, những hình thức đói nghèo xưa cũ mà chúng ta đã nhận thức được và đang cố gắng giải quyết vẫn đang quyện vào những hình thức nghèo đói mới, đôi khi còn tinh vi và nguy hiểm hơn. Từ quan điểm này, thật đáng hoan nghênh việc Liên Hợp Quốc thực hiện việc bài trừ đói nghèo như một trong những Mục tiêu Thiên niên kỷ.
11. Dấn thân cụ thể cho người nghèo cũng phải được ủng hộ bằng sự thay đổi trong tâm thức rằng, có thể dựa vào tác động trên cấp độ văn hóa. Thực ra, ảo tưởng về hạnh phúc dựa trên đời sống tiện nghi xô đẩy nhiều người hướng chiều đến lối sống quy về việc gom tích của cải và thành công xã hội bằng mọi giá, kể cả cái giá mà người khác phải trả, bằng cách chụp giật mối lợi từ những quan niệm xã hội bất chính và hệ thống kinh tế - chính trị thiên vị kẻ mạnh nhất. Do đó, trong một thế giới mà người nghèo ngày càng đông, nghịch lý thay, chúng ta lại chứng kiến sự tăng trưởng của giới tinh hoa phú quý, đang sống trong bong bóng tiện nghi và xa hoa, như thể ở một thế giới hoàn toàn khác so với người dân bình thường. Điều này cho thấy có một thứ văn hoá, dù đôi khi được che đậy khéo léo, vẫn cố tình, thậm chí không thèm nhận thức rằng nó đang loại trừ tha nhân và dung dưỡng thói lãnh đạm với hàng triệu người chết vì đói hoặc tồn tại trong những điều kiện không xứng hợp cho loài người. Vài năm trước, bức ảnh em bé nằm chết trên bờ biển Địa Trung Hải đã gây ra cơn chấn động ; đáng buồn thay, ngoài tiếng kêu gào ở thời điểm ấy, những sự việc tương tự ngày càng trở thành chuyện chẳng có gì liên quan, bị coi như những mẩu tin tức bên lề.
12. Chúng ta không được lơ là trước thực trạng nghèo đói. Chúng ta cần đặc biệt quan tâm đến những tình trạng nghiêm trọng mà trong đó nhiều người đang phải giải quyết tình trạng thiếu thốn thức ăn nước uống. Ngay cả ở các quốc gia giàu có, con số người nghèo ngày càng gia tăng cũng là mối bận tâm. Tại Âu Châu, ngày càng có nhiều gia đình thấy mình không thể đủ sống đến cuối tháng. Nhìn chung, chúng ta đang chứng kiến sự gia tăng của nhiều kiểu đói nghèo khác nhau. Đói nghèo không còn là một thực tại riêng lẻ, đồng dạng, mà bao gồm đa dạng các hình thức bần cùng về kinh tế và xã hội, phản ánh tình trạng bất bình đẳng lan rộng ngay cả trong các khung cảnh vốn thịnh vượng sung túc. Chúng ta đừng quên rằng : “Nghèo gấp hai là những người phụ nữ đang sống trong những tình trạng bị loại trừ, ngược đãi và bạo lực, bởi vì họ thường ít có khả năng tự bảo vệ các quyền lợi cho mình. Tuy vậy, chúng ta vẫn thường xuyên chứng kiến nơi họ những tấm gương anh hùng mỗi ngày thật ấn tượng, trong việc bảo vệ và gìn giữ gia đình dễ tổn thương của họ.” [8] Trong khi ở một số quốc gia đang bắt đầu có những thay đổi đáng kể, “các tổ chức đoàn thể trên toàn thế giới vẫn còn rất lâu mới phản ánh được rõ ràng rằng, phụ nữ có cùng phẩm giá và những quyền lợi như chính nam giới. Bằng lời lẽ của mình, chúng ta nói một đàng, nhưng các quyết định và thực tế lại đi kể một câu chuyện khác,” [9] nhất là nếu xét đến những con số thông kê chị em phụ nữ trên thực tế đang sống trong cảnh cơ hàn.
13. Nhìn xa hơn dữ liệu thống kê đôi khi bị “diễn giải” để thuyết phục rằng tình trạng người nghèo không quá nghiêm trọng, thì toàn cảnh trên thực tế vẫn khá rõ ràng : “Một số quy tắc kinh tế đã chứng minh hiệu lực cho sự tăng trưởng, chứ không phải cho sự phát triển con người toàn diện. Của cải gia tăng rồi, nhưng kéo theo tình trạng bất bình đẳng, hệ quả là 'những hình thức nghèo đói mới nổi lên.' Việc tuyên bố rằng thế giới hiện đại giảm được tình trạng đói nghèo là vì người ta đo lường bằng các tiêu chí lạc hậu, không còn phù hợp với thực tế hôm nay. Chẳng hạn như có thời, việc không có điện không được coi là dấu hiệu của nghèo đói, cũng không phải là nguyên nhân gây khổ sở. Nghèo đói phải luôn được hiểu và đánh giá trong bối cảnh của các cơ hội đang sẵn có trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.” [10] Tuy nhiên, trông xa hơn các tình trạng và bối cảnh đặc trưng, một tài liệu của Cộng đồng Âu Châu (European Community) năm 1984 đã tuyên bố rằng : “Người nghèo được hiểu là các cá nhân, các gia đình hay nhóm người mà các nguồn lực (vật chất, văn hóa và xã hội) hạn chế đến độ bị loại khỏi mức sống tối thiểu có thể chấp nhận được trong các quốc gia thành viên nơi họ sinh sống.” [11] Tuy nhiên, nếu chúng ta chân nhận rằng tất cả mọi người đều có cùng phẩm giá, bất kể nơi chốn sinh ra, thì không được phép phớt lờ những chênh lệch khổng lồ đang tồn tại giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ.
14. Người nghèo không xuất hiện cách ngẫu nhiên hay bởi định mệnh mù quáng và tàn nhẫn. Phần lớn đối với họ, nghèo đói không phải là một lựa chọn. Dù vậy, vẫn có những người cho rằng như thế, cho nên họ bộc lộ sự mù quáng và tàn nhẫn của chính mình. Dĩ nhiên, trong số người nghèo cũng có những người không muốn làm việc, có thể vì cha ông họ đã lao động cả đời mà vẫn chết trong cảnh nghèo túng. Tuy nhiên, còn biết bao người khác cả nam và nữ, làm việc từ sáng sớm đến chiều tối, có thể chỉ loay hoay với chuyện thu gom phế liệu hay tương tự như vậy, dẫu vẫn biết công việc vất vả của họ chỉ có thể giúp sống qua ngày mà chẳng bao giờ thực sự cải thiện được cuộc sống của mình. Cũng không thể nói rằng phần lớn người nghèo phải chịu cảnh như thế là do họ không “xứng đáng” được khác hơn, như quan điểm có vẻ hợp lý của chế độ trọng vọng nhân tài khi vẫn chỉ xem người thành đạt “là xứng đáng”.
15. Không ít lần, ngay cả các Ki-tô hữu cũng sa vào các thái độ được định hình bởi những ý thức hệ thế tục hay các lối tiếp cận chính trị và kinh tế dẫn đến các tổng hợp sai lầm và kết luận lệch lạc. Việc một số người xem thường hoặc chế giễu các công việc bác ái, như thể đó chỉ là nỗi ám ảnh của thành phần thiểu số chứ không phải trái tim nhiệt huyết với sứ vụ của Hội Thánh, khiến tôi thấy cần phải quay lại và đọc lại Tin Mừng, kẻo chúng ta thay thế Tin Mừng bằng sự khôn ngoan của thế gian. Người nghèo không thể bị quên lãng, nếu chúng ra vẫn ở lại trong dòng chảy kỳ vĩ của đời sống Hội Thánh, sự sống có nguồn mạch từ Tin Mừng và sinh hoa kết trái qua mọi thời đại.
16. Thiên Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót, và kế hoạch yêu thương của Người trải rộng và hoàn tất trong dòng lịch sử, trên hết là việc Người “hạ mình” đến ở giữa chúng ta, để giải thoát chúng ta khỏi cảnh nô lệ, sợ hãi, tội lỗi và quyền lực tử thần. Khi để ý đến tình cảnh của con người bằng ánh mắt đầy thương xót và trái tim tràn ngập yêu thương, Thiên Chúa đã hướng đến các thụ tạo của Người và rồi lo liệu cho sự nghèo hèn của họ. Chính để chia sẻ những giới hạn và sự yếu đuối của bản tính nhân loại, đích thân Người đã trở nên nghèo khó và được sinh ra với thân xác như chúng ta. Chúng ta đã nhận biết Người nơi sự bé nhỏ của một hài nhi được đặt trong máng cỏ, và trong sự tột cùng của sự sỉ nhục nơi thập giá, nơi Người đã chia sẻ với chúng ta sự nghèo hèn tận căn là cái chết. Nên thật dễ hiểu, xét về mặt thần học, tại sao chúng ta có thể nói về chọn lựa ưu tiên mà Thiên Chúa dành cho người nghèo, một thành ngữ trồi hiện trong bối cảnh Mỹ Châu La-tinh và cách riêng tại Hội nghị Pu-ê-la, nhưng đã hoà nhập mật thiết với các giáo huấn sau này của Hội Thánh. [12] Sự “ưu tiên” không hề mang tính loại trừ hay phân biệt với các nhóm khác, vì phân biệt như thế là điều là không thể với Thiên Chúa. Sự “ưu tiên” cốt để nhấn mạnh rằng hành động của Thiên Chúa được thúc đẩy bởi lòng trắc ẩn đối với cảnh nghèo hèn và yếu đuối của toàn thể nhân loại. Khi muốn khai mở vương quốc công lý, huynh đệ và liên đới, Thiên Chúa dành một nơi chốn đặc biệt trong trái tim Người cho những ai bị phân biệt đối xử và bị áp bức, rồi Người mời gọi Hội Thánh của Người thực hiện một lựa chọn quyết liệt và triệt để đứng về phía những người yếu thế nhất.
17. Trong viễn cảnh này, chúng ta có thể hiểu được nhiều trang Cựu Ước, trong đó Thiên Chúa được trình bày như là bằng hữu và Đấng giải thoát người nghèo, là Đấng lắng nghe tiếng kêu than của họ và can thiệp để giải thoát họ (x. Tv 34,7). Thiên Chúa là nơi nương náu của người nghèo như các ngôn sứ loan báo. Chúng ta đặc biệt nhớ đến ngôn sứ A-mốt và I-sai-a, đã dấn thân chống lại những bất công nhằm vào người yếu thế nhất và động viên Ít-ra-en canh tân nền phượng tự từ bên trong, bởi vì người ta không thể cầu nguyện và dâng lễ tế trong khi vẫn áp bức người yếu thế và kẻ nghèo hèn. Ngay từ đầu Sách Thánh, tình yêu của Thiên Chúa đã được biểu tỏ cách sống động qua việc Người bảo vệ những kẻ yếu đuối và nghèo hèn, đến mức có thể nói rằng Người dành một tình cảm đặc biệt cho họ : “Trái tim của Thiên Chúa có một chỗ đặc biệt dành cho người nghèo… Toàn bộ lịch sử cứu độ của chúng ta đều mang dấu ấn của sự hiện diện của người nghèo.” [13]
18. Lịch sử Cựu Ước về tình yêu ưu tiên của Thiên Chúa dành cho người nghèo và sự sẵn lòng lắng nghe lời kêu cứu của họ như tôi đã vắn tắt đề cập, được thành toàn nơi Đức Giê-su thành Na-da-rét. [14] Qua việc Nhập Thể, Người “đã trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân” (Pl 2,7), và chính trong thân phận đó, Người đã mang ơn cứu độ đến cho chúng ta. Nơi Người là sự nghèo khó triệt để, đặt nền trên sứ vụ mạc khải của Người về trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta (x. Ga 1,18 ; 1 Ga 4,9). Như cách thức ngắn gọn nhưng ấn tượng mà Thánh Phao-lô thường diễn tả : “anh em biết Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào : Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có.” (2 Cr 8,9)
19. Tin Mừng trưng ra cho chúng ta sự nghèo khó ghi dấu ở mọi khía cạnh đời sống Đức Giê-su. Ngay từ lúc bước vào trần gian, Đức Giê-su đã cảm nghiệm trái đắng của việc bị chối bỏ. Thánh Lu-ca kể chuyện Thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a lúc người sắp sinh con khi họ đến Bê-lem, rồi cám cảnh cho biết thêm rằng “hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,7). Đức Giê-su chào đời trong cảnh nghèo hèn, được đặt nằm trong máng cỏ ; rồi sau đó, để bảo vệ người khỏi cảnh tàn sát, cả gia đình phải trốn sang Ai Cập (x. Mt 2,13-15). Khởi đầu sứ vụ công khai, sau khi tuyên bố trong hội đường Na-da-rét về một năm hồng ân đem niềm vui đến cho người nghèo đã được ứng nghiệm nơi Người, thì Đức Giê-su lại bị lôi ra khỏi thành (x. Lc 4,14-30). Sau này, Người đã chết như một kẻ bị loại trừ, bị lôi ra khỏi thành Giê-ru-sa-lem để chịu đóng đinh trên thập tự (x. Mc 15,22). Thực vậy, sự nghèo khó nơi Đức Giê-su được mô tả như thế này : Người nếm trải cùng một sự loại trừ vẫn là thân phận của người nghèo, kẻ bị gạt ra bên lề xã hội. Đức Giê-su chính là hiện thân của privilegium pauperum – đặc ân của người nghèo. Người trình bày chính Mình cho thế giới không chỉ là Đấng Mê-si-a nghèo khó, nhưng còn là Đấng Mê-si-a của người nghèo và cho người nghèo.
20. Có một số manh mối hé mở địa vị xã hội của Đức Giê-su. Trước hết, Người làm việc như người thợ thủ công hay như bác thợ mộc [téktōn] (x. Mc 6,3). Có nhiều người kiếm kế sinh nhai bằng lao động chân tay. Vì không có đất, họ bị xem thường hơn cả hạng nhà nông. Khi bé Giê-su được Thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a đem dâng trong Đền Thờ, cha mẹ Người đã dâng của lễ của người nghèo là đôi chim gáy hay cặp bồ câu non (x. Lc 2,22-24) theo luật Lê-vi (x. Lv 12,8). Có một đoạn văn hết sức ý nghĩa trong Tin Mừng kể cho chúng ta biết Đức Giê-su cùng với các môn đệ của Người bứt bông lúa để ăn như thế nào khi họ băng qua cánh đồng (x. Mc 2,23-28). Chỉ có những người nghèo mới được phép mót lúa như thế này trên những cánh đồng. Hơn nữa, Đức Giê-su còn nói về chính Người : “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8,20 ; Lc 9,58). Quả thật, Đức Giê-su là Tôn Sư rày đây mai đó, mà chính sự nghèo khó và bấp bênh của Người là những dấu chỉ cho mối dây liên kết với Chúa Cha. Đấy cũng là những trạng thái dành cho những ai ước mong bước theo Người trên con đường làm môn đệ. Bằng cách này, việc từ bỏ của cải, sự giàu sang và những bảo đảm trần thế trở thành dấu chỉ khả thị cho lòng tín thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa và sự quan phòng của Người.
21. Khởi đầu sứ vụ công khai, Đức Giê-su xuất hiện trong hội đường Na-da-rét, Người đọc sách ngôn sứ I-sai-a rồi ứng nghiệm lời ngôn sứ nơi Mình : “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,18 ; x. Is 61,1). Qua đó, Người mạc khải chính Mình là Đấng mà ở đây và ngay lúc này của dòng lịch, đến để tỏ hiện sự gần gũi yêu thương của Thiên Chúa, trước tiên bằng hành động giải thoát những người bị sự dữ giam cầm, những người yếu đuối và nghèo khổ. Các dấu chỉ đi kèm lời rao giảng của Đức Giê-su là những biểu hiện về tình yêu và lòng thương xót mà cùng với đó, Thiên Chúa trông đến người bệnh tật, người nghèo hèn và những kẻ tội lỗi. Vì hoàn cảnh của mình, họ là những người bị gạt sang bên lề bởi xã hội và thậm chí bởi cả những người có đức tin. Đức Giê-su mở mắt người mù, chữa lành người phong hủi, cho kẻ chết sống lại và loan báo Tin Mừng cho người nghèo : Thiên Chúa ở gần, Thiên Chúa yêu thương anh em (x. Lc 7,22). Điều này giải thích lý do tại sao Người công bố : “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6,20). Thiên Chúa tỏ lòng ưu ái người nghèo : những lời hy vọng và giải thoát của Chúa được dành cho họ trước hết. Vì thế, ngay cả trong cảnh nghèo túng hay yếu đau, đừng có ai cảm thấy mình bị bỏ rơi. Còn Hội Thánh, nếu muốn là Hội Thánh của Đức Ki-tô, thì phải là Hội Thánh của các Mối Phúc, Hội Thánh dành không gian cho những người bé mọn và bước đi với người nghèo trong sự nghèo khó, trở thành nơi mà người nghèo có được vị trí ưu tiên (x. Gc 2,2-4).
22. Vào thời đó, vì không có khả năng lo liệu đủ nhu cầu thiết yếu để sống, những người túng thiếu và bệnh tật thường buộc phải đi ăn xin. Họ còn phải gánh thêm nỗi nhục xã hội, bởi người ta tin rằng bệnh tật và nghèo khổ có vướng mắc nào đó với tội lỗi cá nhân. Đức Giê-su đã mạnh mẽ chống lại não trạng này khi khẳng định rằng Thiên Chúa “cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45). Thật vậy, Người đã đảo ngược hoàn toàn quan niệm ấy, như chúng ta thấy trong phần kết của dụ ngôn về ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khổ : “Con ơi, hãy nhớ lại : suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi ; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ” (Lc 16,25).
23. Như vậy, rõ ràng là “niềm tin của chúng ta nơi Đức Ki-tô, Đấng đã trở nên nghèo khó và vẫn luôn gần gũi với người nghèo khổ và những kẻ bị loại trừ chính là nền tảng cho mối quan tâm của chúng ta về sự phát triển toàn diện của những thành phần bị lãng quên nhất trong xã hội”. [15] Tôi thường tự vấn : Giáo huấn Kinh Thánh về người nghèo rõ ràng đến thế, mà tại sao nhiều người còn nghĩ rằng họ vẫn có thể thanh thản dửng dưng với người nghèo ? Dẫu vậy, giờ đây chúng ta tiếp tục suy niệm về những điều Sách Thánh nói với chúng ta về mối tương quan với người nghèo và vị trí thiết yếu của họ trong Dân Thiên Chúa.
24. Thánh Gio-an Tông Đồ viết : “Ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không thấy” (1 Ga 4,20). Tương tự, trong câu trả lời cho một kinh sư, Đức Giê-su đã trích lại hai điều răn xưa : “Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh [em] hết lòng hết dạ, hết sức anh [em]” (Đnl 6,5), và “Ngươi phải yêu người đồng loại như chính” (Lv 19,18), rồi kết hợp cả hai thành một điều răn duy nhất. Thánh Mác-cô, tác giả Tin Mừng, ghi lại đáp từ của Đức Giê-su bằng những lời này : “Điều răn đứng đầu là : Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là : Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12,29-31).
25. Trích đoạn Sách Lê-vi ở trên dạy yêu thương người thân cận, trong khi nhiều đoạn khác mời gọi tôn trọng thay vì là yêu mến, thậm chí cả kẻ thù : “Nếu gặp bò hay lừa của kẻ thù đi lạc, ngươi phải dẫn nó về cho người ấy. Nếu thấy lừa của kẻ ghét ngươi quỵ ngã vì chở nặng, ngươi không được để mặc người ấy ; ngươi phải giúp người ấy đỡ lừa dậy” (Xh 23,4-5). Ở đây, giá trị nội tại của sự tôn trọng tha nhân được trình bày rõ ràng : bất cứ ai đang cần giúp đỡ, kể cả kẻ thù, đều xứng đáng với sự trợ giúp của chúng ta.
26. Giáo huấn của Đức Giê-su về tính ưu tiên của tình yêu đối với Thiên Chúa luôn được bổ túc một cách rõ ràng qua sự khẳng định rằng người ta không thể yêu mến Thiên Chúa mà không mở lòng yêu thương người nghèo. Tình yêu dành cho đồng loại là bằng chứng xác thực cho tính chân thực của tình yêu đối với Thiên Chúa, như thánh Gio-an khẳng định : “Thiên Chúa, chưa ai được chiêm ngưỡng Thiên Chúa bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo... Thiên Chúa là tình yêu : ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4,12.16). Hai tình yêu ấy tuy khác biệt nhưng không thể tách rời. Ngay cả trong những trường hợp không minh nhiên hướng về Thiên Chúa, thì mọi hành động yêu thương dành cho tha nhân của người ta, một cách nào đó, vẫn phản ánh lòng từ ái của Thiên Chúa như chính Chúa dạy : “Ta bảo thật các ngươi : mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
27. Vì lý do này, các việc bác ái được đề nghị như là dấu chỉ cho tính chân thực của việc thờ phượng, tức là trong khi dâng lời ca tụng Thiên Chúa, chúng ta cũng có nhiệm vụ phải mở lòng mình ra cho sự biến đổi mà Chúa Thánh Thần có thể thực hiện nơi chúng ta, để rồi tất cả chúng ta có thể trở nên hình ảnh của Đức Ki-tô và lòng thương xót của Người đối với người yếu đuối. Theo nghĩa này, mối tương quan với Chúa được biểu lộ trong việc thờ phượng cũng nhằm giải thoát chúng ta khỏi nguy cơ sống các mối tương quan với người khác theo lý lẽ toan tính vụ lợi. Thay vào đó, chúng ta hướng mở đến lòng quảng đại bao bọc mọi người mà vì yêu thương nhau nên luôn luôn chung chia mọi sự. Về điều này, Đức Giê-su khuyên : “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc…” (Lc 14,12-14).
28. Lời Chúa mời gọi hãy tỏ lòng thương xót người nghèo đạt đến đỉnh điểm trong dụ ngôn rất sâu sắc nói về cuộc phán xét chung (x. Mt 25,31-46), được sử dụng làm minh họa sống động cho Mối Phúc về người có lòng thương xót. Trong dụ ngôn này, Chúa trao cho chúng ta chiếc chìa khóa để chúng ta sống tròn đầy đời mình. Thật vậy : “Nếu chúng ta tìm kiếm sự thánh thiện chỉ để làm đẹp lòng Thiên Chúa, thì bản văn này trưng ra cho chúng ta một tiêu chí rõ ràng, làm nền tảng cho việc phán xét chúng ta sau này.” [16] Những lời rõ ràng và mạnh mẽ của Tin Mừng phải được đem ra thực hành mà “không có bất kỳ ‘cái nếu cái nhưng’ nào làm suy yếu sức mạnh của những lời ấy. Chúa chúng ta đã cho thấy rõ ràng là sự thánh thiện không thể được hiểu hay được sống xa rời những đòi hỏi này.” [17]
29. Trong cộng đoàn Ki-tô hữu thời đầu, các việc bác ái được thực hiện không phải dựa trên những nghiên cứu sơ bộ hay kế hoạch định sẵn, mà xuất phát trực tiếp từ việc noi gương Đức Giê-su như Tin Mừng trình bày. Thư của thánh Gia-cô-bê bàn nhiều về vấn đề tương quan giữa người giàu và người nghèo, đồng thời đặt ra hai câu hỏi để các tín hữu xem xét tính xác thực nơi đức tin mình : “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà lại không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì ? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng ? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ : ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no’, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì ? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,14-17).
30. Thánh Gia-cô-bê nói tiếp : “Vàng bạc của các người đã bị rỉ sét ; và chính rỉ sét ấy là bằng chứng buộc tội các người ; nó sẽ như lửa thiêu huỷ xác thịt các người. Các người đã lo tích trữ trong những ngày sau hết này. Các người đã gian lận mà giữ lại tiền lương của những thợ đi cắt lúa trong ruộng của các người. Kìa, tiền lương ấy đang kêu lên oán trách các người, và tiếng kêu của những thợ gặt ấy đã thấu đến tai Chúa các đạo binh. Trên cõi đất này, các người đã sống xa hoa, đã buông theo khoái lạc, lòng các người đã được no đầy thoả mãn trong ngày sát hại” (Gc 5,3-5). Đây là những lời mạnh mẽ, dù chúng ta có thể không muốn nghe ! Một lời kêu gọi tương tự cũng xuất hiện trong Thư thứ nhất của thánh Gio-an : “Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được ?” (1 Ga 3,17).
31. Sứ điệp Lời Thiên Chúa là “rõ ràng và trực tiếp, đơn sơ và hùng hồn, mà không lời giải thích nào của Hội Thánh có quyền làm tương đối hoá sứ điệp ấy. Suy niệm của Hội Thánh về các bản văn này không nên làm lu mờ hay làm suy giảm sức mạnh của chúng, nhưng phải thúc giục chúng ta đón nhận những thúc bách nơi những Lời ấy với lòng can đảm và nhiệt thành. Tại sao lại phức tạp hoá một điều gì đó quá đơn giản ? Các công cụ mang tính khái niệm tồn tại là để tăng cường việc tiếp xúc với các thực tại mà chúng giải thích, chứ không phải để làm chúng ta xa rời chúng.” [18]
32. Thật vậy, chúng ta thấy một ví dụ sáng rõ của Hội Thánh về việc chia sẻ của cải và chăm sóc người nghèo trong cuộc sống thường nhật của cộng đoàn Ki-tô hữu thuở đầu. Cách riêng, chúng ta có thể nhắc đến cách thức giải quyết vấn đề cấp phát lương thực hằng ngày cho các bà goá (x. Cv 6,1-6). Đây là một vấn đề không đơn giản, phần vì một số bà goá đến từ các vùng khác và đôi khi bị bỏ quên bởi họ là người ngoại quốc. Trên thực tế, đoạn sách được thuật lại trong sách Công vụ Tông đồ nhấn mạnh đến sự bất bình từ phía những người Do-thái theo văn hóa Hy Lạp. Các Tông đồ không trả lời bằng những từ ngữ trừu tượng, nhưng bằng việc đặt đức bác ái dành cho tất cả mọi người làm trung tâm, bằng cách tổ chức lại việc giúp đỡ các bà goá qua việc yêu cầu cộng đoàn chọn ra những người khôn ngoan và được kính trọng để có thể giao phó việc phân phát lương thực, còn họ thì lo việc rao giảng Lời Chúa.
33. Khi thánh Phao-lô lên Giê-ru-sa-lem để tham vấn các Tông đồ, sợ rằng mình có thể “ngược xuôi, và đã ngược xuôi vô ích” (Gl 2,2), người được yêu cầu đừng quên người nghèo (x. Gl 2,10). Vì thế, người đã tổ chức nhiều cuộc lạc quyên để giúp đỡ các cộng đoàn nghèo. Trong số các lý do khiến Thánh Phao-lô thực hiện nghĩa cử này, nổi bật là lý do sau đây : “ai vui vẻ dâng hiến, thì được Thiên Chúa yêu thương” (2 Cr 9,7). Lời Chúa nhắc nhở những ai trong chúng ta thường không hướng đến các nghĩa cử bác ái và vô vị lợi, rằng sự quảng đại với người nghèo là một ân phúc cho chính người thực hiện : Thiên Chúa dành cho họ một tình yêu đặc. Thật vậy, Kinh Thánh đầy những lời hứa dành cho những ai biết quảng đại với tha nhân : “Thương xót kẻ khó nghèo là cho ĐỨC CHÚA vay mượn, Người sẽ đáp trả xứng việc đã làm” (Cn 19,17). “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại… Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.” (Lc 6,38). “Bấy giờ ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương của ngươi sẽ mau lành” (Is 58,8). Các Ki-tô hữu thời đầu không hề do dự về điều này.
34. Được mô tả trong các trang Kinh Thánh và được truyền lại cho chúng ta đúng như lời mặc khải của Thiên Chúa, đời sống của các cộng đoàn Ki-tô hữu thời đầu vẫn luôn được trao ban cho chúng ta như một mẫu gương để noi theo, đồng thời cũng là chứng tá về đức tin hành động qua đức ái và là nguồn cảm hứng bền bỉ cho các thế hệ mai sau. Qua các thế kỷ, những trang Kinh Thánh ấy đã làm lay động tâm hồn các tín hữu, khơi dậy tình yêu thương và các hành động bác ái, như những hạt giống tốt lành không ngừng sinh hoa kết quả.
35. Ba ngày sau khi được bầu chọn, vị tiền nhiệm của tôi đã bày tỏ với các đại diện hãng truyền thông ước nguyện của người rằng việc chăm lo và lưu tâm đến người nghèo phải được thể hiện rõ ràng hơn nữa trong Hội Thánh : “Tôi mong ước biết bao một Hội Thánh nghèo và vì người nghèo !” [19]
36. Ước nguyện này phản ánh nhận thức rằng Hội Thánh “nhận ra nơi những người nghèo khó và những người đau khổ, chân dung của Đấng sáng lập nghèo khó và chịu đau khổ của Hội Thánh.” [20] Thật vậy, vì Hội Thánh được mời gọi để đồng hình đồng dạng với những người bé mọn nhất, nơi thâm tâm Hội Thánh “không thể có chỗ cho sự nghi ngờ hoặc những lối giải thích làm suy yếu một sứ điệp rõ ràng đến thế… Chúng ta phải quả quyết, không lời lẽ quanh co, rằng có một mối ràng buộc không thể tách rời giữa đức tin của chúng ta và người nghèo.” [21] Về điều này, chúng ta có vô số chứng nhân nơi các môn đệ của Đức Ki-tô trải dài suốt hai thiên niên kỷ qua. [22]
37. Thánh Phao-lô kể rằng trong số các tín hữu của cộng đoàn Ki-tô hữu thuở khai sinh, không có nhiều người là “khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người quý phái” (1 Cr 1,26). Tuy nhiên, mặc cho cảnh nghèo khó của mình, các Ki-tô hữu thời đầu luôn ý thức rõ về sự cần thiết của việc quan tâm đến những người túng thiếu nhất. Ngay từ buổi bình minh của Ki-tô giáo, các Tông Đồ đã đặt tay trên bảy người nam được tuyển chọn trong cộng đoàn. Trong một phạm vi nhất định, các Tông Đồ đã để họ hoà nhập vào thừa tác vụ của chính mình, khi bổ nhiệm họ làm việc phục vụ [diakonía trong tiếng Hy-lạp] thành phần nghèo nhất (x. Cv 6,1-5). Chúng ta nhớ đến cách riêng một người thuộc nhóm này là Thánh Tê-pha-nô, người môn đệ đầu tiên làm chứng cho đức tin của mình vào Đức Ki-tô đến độ chịu đổ máu. Nơi người, chứng tá về việc chăm lo cho người nghèo và về phúc tử đạo là một.
38. Không đầy hai thế kỷ sau, một phó tế khác là Thánh Lô-ren-xô cũng thể hiện lòng tín thành với Đức Giê-su Ki-tô theo cách thế tương tự, bằng việc kết hợp phúc tử đạo với việc phục vụ người nghèo. [23] Theo lời kể của Thánh Am-rô-xi-ô, chúng ta được biết về Thánh Lô-ren-xô là một phó tế ở Rô-ma dưới triều Đức Giáo Hoàng Xít-tô II, đã bị nhà cầm quyền Rô-ma ép buộc phải trao lại gia sản của Hội Thánh. “Hôm sau, người đưa những người nghèo đi cùng với mình. Khi được hỏi xem đâu là gia sản đã hứa, người chỉ vào người nghèo mà nói : ‘Gia sản của Hội Thánh đây này’.” [24] Khi kể lại sự kiện này, thánh Am-rô-xi-ô cũng hỏi : “Đức Giê-su có gia sản nào quý giá hơn những người mà Đức Giê-su yêu thương và tỏ Mình ra cho họ hay không ?” [25] Và khi nhắc nhớ các thừa tác viên trong Hội Thánh không bao giờ được sao nhãng việc chăm sóc người nghèo, không được tích trữ của cải dù nhiều hay ít làm lợi lộc cho riêng mình, thánh Am-rô-xi-ô nói : “Nhiệm vụ này phải được thi hành với đức tin chân thành và dự liệu khôn ngoan. Hẳn nhiên, nếu có ai lợi dụng thu tích nguồn lợi cho bản thân, người ấy phạm phải tội ác ; nhưng nếu ai đó phân phát lợi tức cho người nghèo hoặc cứu chuộc tù nhân, ấy là người thực hiện nghĩa cử yêu thương.” [26]
39. Từ những thế kỷ đầu tiên, các Giáo phụ nhận thấy nơi người nghèo một con đường ưu tiên để tiếp cận Thiên Chúa, một cách đặc biệt để gặp gỡ Người. Lòng bác ái được biểu lộ cho những người túng thiếu không chỉ được xem như một nhân đức luân lý, mà là một diễn tả cụ thể của đức tin nơi Ngôi Lời nhập thể. Cộng đoàn tín hữu được nâng đỡ bởi sức mạnh của Chúa Thánh Thần, được cắm rễ trong cuộc hiện sinh gần sát với người nghèo, những người không bị coi như “một bộ phận phụ thuộc,” nhưng là phần thiết yếu trong thân thể sống động của Đức Ki-tô. Ví dụ như, đang trên hành trình đón nhận phúc tử đạo, thánh In-nha-xi-ô thành An-ti-ô-khi-a đã động viên cộng đoàn Miếc-na đừng bỏ quên bổn phận thực hành các việc bác ái cho những người túng thiếu nhất, cảnh báo họ đừng hành động như những kẻ chống lại Thiên Chúa : “Nhưng hãy suy nghĩ về những người khác quan niệm về ân sủng Đức Ki-tô đã ban cho chúng ta, họ là những người chống lại ý Thiên Chúa đấy thôi. Họ không để ý gì về tình thương ; không quan tâm đến goá phụ, trẻ mồ côi hay người bị áp bức ; không lo cho kẻ bị trói buộc hay người tự do ; không để ý đến người đói ăn hay người khát uống.” [27] Giám Mục Miếc-na là Thánh Pô-li-cáp cũng tuyên bố rõ ràng rằng các thừa tác viên Hội Thánh phải chăm sóc người nghèo : “Hãy để các giáo sĩ phải động lòng trắc ẩn và thương xót tất cả mọi người, để dẫn về những người lạc lối, để thăm viếng mọi người đau yếu và để không bỏ bê goá phụ, trẻ mồ côi hay người nghèo, nhưng phải luôn ‘lo liệu những điều xứng hợp trước mặt Thiên Chúa và loài người’.” [28] Từ hai nhân chứng này, chúng ta thấy Hội Thánh xuất hiện như người mẹ hiền của người nghèo, là nơi đón chào và là công lý.
40. Về phần mình, Thánh Giút-ti-nô, người đã gửi Bản minh giáo đầu tiên đến Hoàng đế An-ri-a-nô, Viện Nguyên Lão và dân chúng Rô-ma, giải thích rằng các Ki-tô hữu đem tất cả những gì mình có cho những người túng thiếu vì họ xem họ như anh chị em trong Đức Ki-tô. Đoạn viết về việc cộng đoàn tụ họp cầu nguyện vào ngày thứ nhất trong tuần, người nhấn mạnh rằng, trọng tâm của phụng vụ Ki-tô giáo không thể có chuyện tách rời việc thờ phượng Thiên Chúa khỏi việc quan tâm đến người nghèo. Do đó, ở một thời điểm nhất định trong khi cử hành lễ nghi : “những người khá giả và thiện chí dâng tặng những gì mà mỗi người nghĩ là phù hợp ; rồi những gì thu được lại được giao cho người chủ toạ, cũng là người phụ trách giúp đỡ trẻ mồ côi và các góa phụ, những người đau yếu hoặc vì nguyên nhân nào khác mà cần giúp đỡ, và những ai bị giam cầm, những người khách lạ đang ở trọ giữa chúng ta, tóm lại là lo liệu cho tất cả những ai đang túng thiếu.” [29] Điều này chứng tỏ Hội Thánh ban sơ không tách rời niềm tin khỏi hoạt động xã hội : đức tin không có chứng tá qua những hành động cụ thể vẫn bị xem là đức tin chết, như thánh Gia-cô-bê dạy bảo chúng ta (x. Gc 2,17).
41. Trong các Giáo phụ Đông phương, có lẽ thánh Gio-an Kim Khẩu, Tổng Giám mục Công-tăng-ti-nô-pô-li từ cuối thế kỷ IV đến đầu thế kỷ V, là nhà giảng thuyết hăng say nhất về công bằng xã hội. Trong những bài giảng của mình, người thúc đẩy tín hữu chân nhận Đức Ki-tô nơi người nghèo túng : “Bạn muốn tôn kính thân thể Đức Ki-tô ư ? Chớ khinh chê thân thể ấy khi thân thể ấy trần trụi : đừng có thái độ này là trong nhà thờ thì tôn kính, cho thân thể Người mang những y phục lụa là gấm vóc, nhưng ở ngoài lại coi thường, để cho thân thể ấy phải lạnh giá và trần trụi... Thân thể Chúa ở đây không cần y phục, nhưng cần tâm hồn trong trắng, còn thân thể Chúa ngoài kia thì cần được chăm lo tận tình. Chúng ta hãy học cho biết suy nghĩ chín chắn sâu xa mà tôn kính Đức Ki-tô như Người muốn. Thật vậy, Đấng chúng ta tôn kính sẽ rất hài lòng khi chúng ta tôn kính theo cách Người chọn chứ không phải theo cách chúng ta nghĩ… Bạn cũng thế, hãy bày tỏ lòng tôn kính Người theo cách mà Người truyền dạy khi ra luật cho bạn : đem của cải phân phát cho người nghèo. Thiên Chúa chẳng cần bình vàng chén bạc, nhưng cần những tấm lòng vàng.”[1] [30] Thánh nhân nói tiếp sau khi khẳng định vô cùng sáng rõ rằng, nếu người tín hữu không gặp được Đức Ki-tô nơi người nghèo đang đứng trước cửa, thì họ sẽ không thể thờ phượng Người ngay cả trên bàn thờ : “Ích lợi gì khi bàn của Đức Ki-tô thì chất đầy những bình vàng đang lúc chính Người lại phải chết vì chẳng có gì ăn ? Trước hết, hãy cho kẻ đói ăn no đã, rồi còn lại bao nhiêu sẽ đem trang hoàng cho bàn của Người.”[2] [31] Như vậy, người hiểu Bí tích Thánh Thể như là biểu thức bí tích của bác ái và công lý khi cả hai điều này đều đi trước và đi theo Bí Tính Thánh Thể. Lòng bác ái và công lý như thế cũng làm cho Bí Tích Thánh Thể trở nên thường hằng qua tình yêu và sự quan tâm đến người nghèo.
42. Thế nên, lòng bác ái không phải là điều tùy chọn mà là đòi buộc của việc thờ phụng đích thực. Thánh Gio-an Kim Khẩu lên án mạnh mẽ sự giàu có quá độ gắn liền với thói vô cảm đối với người nghèo. Việc quan tâm đúng mực đến họ không chỉ đơn thuần là một đòi hỏi xã hội mà còn là điều kiện để được ơn cứu độ, khiến cho của cải bất công trở thành gánh nặng chịu quy tội. “Trời buốt giá mà ông nhà nghèo vẫn nằm trong mớ quần áo rách rưới, chết dần chết mòn, lẩy bẩy lạnh run. Bộ dạng và áo sống như vậy khiến bạn mủi lòng quá đi chứ. Thế mà bạn vẫn lướt qua, mặt đỏ bừng say khướt. Và phần bạn, bạn trông ngóng được Thiên Chúa giải thoát khỏi điều bất hạnh cách nào đây ?... Bằng tầng tầng lớp lớp áo quần hào nhoáng, bạn siêng năng tô điểm cho cái thi hài vô cảm, cái xác chết không còn nhận thức được danh dự là chi nữa. Thế mà bạn lại khinh miệt kẻ ưu phiền, người đang tả tơi, bị hành hạ, bị dày vò vì đói khát và lạnh giá.” [32] Ý thức sâu xa về công bằng xã hội ấy khiến người khẳng định rằng “không cho người nghèo là đang ăn cắp của họ, là lường gạt để chiếm đoạt cuộc sống của họ, vì những gì ta có là thuộc về họ.” [33]
43. Thánh Am-rô-xi-ô, vị linh hướng của Thánh Âu-tinh, luôn nhấn mạnh đến đòi hỏi luân lý trong việc phải chia sẻ của cải vật chất : “Những gì anh cho người nghèo không phải là tài sản của anh, nhưng là của họ. Sao anh lại chiếm đoạt những gì đã được trao dâng để dùng chung ?” [34] Đối với vị Giám mục Mi-lan, việc bố thí là sự công bằng được khôi phục chứ không phải là cử chỉ thương cảm bố con. Trong các bài giảng của người, lòng thương xót đảm nhận đặc tính ngôn sứ : người lên án các cơ cấu gom tích của cải và tái khẳng định sự hiệp thông là ơn gọi của Hội Thánh.
44. Được đào tạo trong truyền thống này, vị Thánh Giám mục thành Híp-pô đã được dạy về lòng yêu mến ưu tiên cho người nghèo. Là một mục tử tỉnh thức và là nhà thần học kiệt xuất, người nhận ra sự hiệp thông đích thực của Hội Thánh còn được biểu tỏ trong sự hiệp thông về của cải. Trong những đoạn bình giải về các Thánh vịnh, người nhắc nhớ chúng ta rằng các Ki-tô hữu chân chính không bao giờ quên lãng tình thương dành cho những người túng thiếu nhất : “Nhìn xem anh em mình, anh em biết họ có túng thiếu hay không, nhưng nếu Đức Ki-tô ngự trong anh em, thì anh em cũng phải thương xót những người xa lạ.” [35] Việc chia sẻ của cải này phát sinh từ lòng bác ái mang tính thần học và có mục đích tối hậu của nó là tình yêu Đức Ki-tô. Đối với Thánh Âu-tinh, người nghèo không chỉ là những người cần được giúp đỡ, mà còn là sự hiện diện mang tính bí tích của Chúa.
45. Vị tiến sĩ về ân sủng xem việc chăm sóc người nghèo là bằng chứng cụ thể của lòng chân thành nơi đức tin. Ai nói rằng mình yêu mến Thiên Chúa mà không có lòng thương xót người túng thiếu thì quả là dối trá (x. 1 Ga 4,20). Khi bình giải về cuộc gặp gỡ của Đức Giê-su với người thanh niên giàu có và “kho tàng trên trời” dành cho những ai dâng những gì họ có cho người nghèo (x. Mt 19,21), Thánh Âu-tinh đặt lời những sau đây vào miệng Chúa : “Ta nhận lấy đất, Ta sẽ ban trời ; Ta nhận lấy của cải đời này, Ta sẽ trả lại của cải đời đời ; Ta nhận lấy bánh, Ta sẽ ban sự sống… Ta được đón tiếp, nhưng Ta sẽ cho nhà ở ; Ta được viếng thăm khi đau yếu, nhưng Ta sẽ ban sự chữa lành ; Ta được thăm nom nơi ngục tù, nhưng Ta sẽ ban tự do. Bánh ngươi đã cho người nghèo của Ta đã được ăn hết, nhưng bánh Ta sẽ ban không chỉ làm ngươi được tươi tỉnh, mà còn không bao giờ hết.” [36] Đấng Toàn Năng sẽ không chịu thua kém lòng quảng đại đối với những ai phục vụ những người túng thiếu nhất : càng yêu thương người nghèo bao nhiêu, phần thưởng từ Thiên Chúa càng lớn bấy nhiêu.
46. Quan điểm dĩ Đức Ki-tô vi trung và mang tính Hội Thánh sâu xa này giúp chúng ta khẳng định rằng các của lễ, một khi được nảy sinh từ tình yêu, không chỉ làm dịu đi những nhu cầu của anh chị em mình, mà còn thanh luyện tâm hồn người cho đi, nếu người đó sẵn lòng thay đổi. Đúng như lời của một tác giả lấy danh nghĩa Thánh Âu-tinh : “việc bố thí có thể giúp bạn xóa đi những tội lỗi quá khứ, nếu bạn biết thay đổi tính tình của mình.” [37] Có thể nói, đó là con đường thường ngày dẫn đến việc hoán cải dành cho những ai mong ước bước theo Đức Ki-tô với trọn tâm hồn.
47. Trong một Hội Thánh nhận ra dung mạo của Đức Ki-tô nơi người nghèo và của cải vật chất là công cụ của lòng bác ái, thì tư tưởng của Thánh Âu-tinh vẫn luôn là nguồn sáng rỡ ràng. Ngày nay, lòng trung thành với giáo huấn của thánh nhân không chỉ đòi hỏi việc nghiên cứu các tác phẩm của người, mà còn đòi hỏi sự sẵn sàng sống triệt để lời kêu gọi hoán cải, nhất thiết phải bao hàm việc phục vụ bác ái.
48. Nhiều Giáo phụ khác của Hội Thánh, cả bên Đông lẫn bên Tây, cũng đã nói về tính ưu tiên của việc quan tâm đến người nghèo trong đời sống và sứ vụ của mỗi Ki-tô hữu. Từ viễn tượng này, có thể nói vắn tắt rằng thần học các Giáo phụ rất thực tiễn, nhắm đến một Hội Thánh nghèo và cho người nghèo, luôn gợi nhớ rằng Tin Mừng chỉ được rao giảng đúng mực khi Tin Mừng ấy thúc đẩy chúng ta chạm đến thân xác của những người nhỏ bé nhất trong chúng ta, và cảnh báo rằng sự nghiêm cẩn giáo điều mà thiếu vắng lòng thương xót chỉ là nói suông.
49. Lòng trắc ẩn Ki-tô giáo đã tự biểu lộ cách đặc biệt trong việc chăm sóc người yếu bệnh và đau khổ. Dựa trên những dấu chỉ được thể hiện qua sứ vụ công khai của Đức Giê-su như việc chữa lành người mù, người phong hủi và người bại liệt, Hội Thánh hiểu rằng, việc chăm sóc người đau yếu là phần quan trọng trong sứ vụ của mình, vì ở nơi họ, Hội Thánh dễ dàng nhận ra Chúa chịu đóng đinh. Trong cơn dịch bệnh tại thành Các-tha-gô là nơi người làm Giám mục, Thánh Síp-ri-a-nô đã nhắc nhở các tín hữu về tầm quan trọng của việc chăm sóc người đau yếu : “Cơn dịch hạch và tai họa này, dù có vẻ ghê gớm và chết người, lại thử thách đức chính trực của mỗi người, và kiểm nghiệm tâm trí loài người, xem những người khỏe mạnh có phục vụ người đau yếu hay không ; những người họ hàng có chân thành yêu thương nhau hay không ; những người chủ có tỏ lòng thương xót những tôi tớ đau yếu không ; các thầy thuốc có bỏ rơi người đau bệnh cần đến sự giúp đỡ hay không.” [38] Truyền thống Ki-tô giáo trong việc thăm viếng người đau yếu, trong việc lau rửa những vết thương cho họ và trong việc an ủi kẻ ưu phiền không đơn thuần là một nỗ lực tỏ lòng nhân ái, nhưng là hành động có tính cách giáo hội mà qua đó các thành viên của Hội Thánh “chạm đến thân mình đang chịu đau khổ của Đức Kitô.” [39]
50. Vào thế kỷ XVI, Thánh Gio-an Thiên Chúa đã sáng lập Dòng Bệnh viện mang tên người, tạo lập các bệnh viện kiểu mẫu trong việc đón nhận mọi người, không phân biệt địa vị xã hội hay kinh tế. Câu nói nổi tiếng của người “Anh em tôi ơi, hãy làm việc lành !” đã trở thành phương châm cho lòng bác ái thể hiện với người đau bệnh. Cùng thời đó, Thánh Ca-mi-lô Len-li đã sáng lập Dòng Tá viên Mục vụ bệnh nhân, các Ca-mi-li-nô (tiểu đệ Ca-mi-lô), hiến trọn bản thân để đảm nhận sứ vụ phục vụ người đau yếu. Luật dòng của người đòi buộc : “mỗi người nên xin Chúa ban cho lòng yêu thương từ mẫu đối với người đồng loại của mình, để chúng ta phục vụ họ bằng tất cả tình thương, cả hồn lẫn xác, vì nhờ ơn Chúa, chúng ta ước mong phục vụ mọi người đau yếu với tình cảm của một bà mẹ luôn yêu thương dành cho đứa con duy nhất đang đau bệnh của mình.” [40] Ở bệnh viện, trên chiến trường, trong nhà tù và trên đường phố, các tiểu đệ Ca-mi-lô là hiện thân lòng thương xót của Đức Ki-tô Lương Y.
51. Việc chăm sóc người đau yếu bằng tình cảm như người mẹ chăm lo cho con bà, nhiều nữ tu đã giữ vai trò còn lớn hơn nữa trong việc cung cấp dịch vụ y tế cho người nghèo. Các Nữ Tử Bác Ái Thánh Vinh Sơn Phao-lô, các Nữ Tu Dòng Bệnh Viện, các Tiểu Muội Chúa Quan Phòng và nhiều hội dòng nữ khác đã trở nên hình ảnh hiền mẫu âm thầm hiện diện trong bệnh viện, nhà dưỡng lão và an trí viện. Họ đem lại nguồn an ủi, bằng đôi tai luôn lắng nghe, bằng sự hiện diện và trên hết tất cả là sự dịu dàng. Thường bằng chính đôi tay mình, họ đã xây dựng các cơ sở chăm sóc sức khoẻ ở những vùng thiếu thốn nguồn trợ giúp y tế. Họ dạy cách giữ gìn vệ sinh, làm bà đỡ và cấp phát thuốc men với ơn khôn ngoan theo bản tính và đức tin sâu xa. Nhà cửa của họ trở thành những ốc đảo tốt tươi phẩm giá, nơi mà chẳng có một ai bị loại trừ. Lòng trắc ẩn biết đụng chạm chính là phương dược đầu tiên. Thánh Lu-i Ma-ri-ac đã viết cho các chị em của người, tức các Nữ Tử Bác Ái, nhắc rằng “họ được Thiên Chúa ban phúc đặc biệt để phục vụ người đau yếu nghèo khổ trong bệnh viện.” [41]
52. Ngày nay, di sản ấy vẫn tiếp nối trong các bệnh viện công giáo, các cơ sở y tế ở những vùng sâu vùng xa, các phòng khám hoạt động những cánh rừng nhiệt đới, những nơi trú thân dành cho người nghiện ma tuý và các bệnh viện dã chiến trong các những vùng chiến sự. Bóng dáng Ki-tô hữu hiện diện giữa người đau yếu nói lên rằng ơn cứu độ không phải là một ý niệm trừu tượng, nhưng là hành động cụ thể. Trong hành động chữa lành vết thương, Hội Thánh công bố rằng Nước Thiên Chúa khởi đầu nơi những người dễ bị tổn thương nhất. Làm như vậy, Hội Thánh giữ vững lòng thành tín với Đấng đã phán : “Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng” (Mt 25,36). Khi Hội Thánh quỳ xuống bên người cùi, bên đứa trẻ suy dinh dưỡng hay người hấp hối vô danh, Hội Thánh chu toàn ơn gọi thẳm sâu nhất của mình : yêu mến Chúa ở những nơi Người chịu tổn thương nhiều nhất.
53. Nếp sống đan tu bắt nguồn từ sự trầm mặc của sa mạc, là chứng từ của sự hiệp thông ngay từ thuở đầu. Các đan sĩ nam nữ đã từ bỏ tất cả – của cải, danh vọng, gia đình – không chỉ vì họ xem nhẹ của cải thế gian – contemptus mundi – nhưng còn để gặp gỡ Đức Ki-tô khó nghèo trong sự buông bỏ triệt để này. Trong Luật Dòng của người, Thánh Ba-si-lô Cả không thấy có sự mâu thuẫn giữa đời sống cầu nguyện và chiêm niệm của các đan sĩ với công việc phục vụ người nghèo của họ. Theo người, lòng hiếu khách và chăm sóc người túng thiếu là phần không thể tách rời trong linh đạo đan tu, và các đan sĩ, dù đã bỏ mọi sự để ấp ủ đức thanh bần, vẫn phải giúp đỡ người nghèo khó nhất bằng việc lao động của mình, vì “để có đủ mà giúp người túng thiếu… rõ ràng là chúng ta phải cần lao... Nếp sống này thuận lợi không chỉ cho việc chế ngự thân xác, mà còn giúp ích cho cuộc bác ác hướng đến người đồng loại, để qua chúng ta Thiên Chúa chu cấp đủ đầy cho anh chị em yếu kém hơn.” [42]
54. Tại Xê-da-rê, nơi đặt toà Giám mục, Thánh Ba-si-li-ô đã kiến thiết khu vực gọi là Ba-si-li-a, gồm có các phòng trọ, các bệnh viện và trường học cho người nghèo khó và đau yếu. Như vậy, đan sĩ không chỉ là thầy khổ tu, nhưng còn là tôi tớ. Thánh Ba-si-li-ô đã chứng minh rằng muốn được gần gũi Thiên Chúa, người ta phải thân cận với người nghèo. Tình yêu cụ thể là tiêu chuẩn của sự thánh thiện. Cầu nguyện và chăm sóc, chiêm niệm và chữa lành, viết lách và đón tiếp : tất cả đều biểu lộ cùng một tình yêu dành cho Đức Ki-tô.
55. Bên Tây phương, Thánh Biển Đức Noóc-xi-a đã đúc kết Luật Dòng mà sau này trở thành khung sườn cho đời sống tâm linh của Âu Châu. Việc tiếp đón người nghèo và khách hành hương chiếm vị trí nổi trội trong tài liệu này : “Người nghèo và khách hành hương phải được đón tiếp với tất cả sự ân cần và lòng hiếu khách, vì chính nơi họ mà Đức Ki-tô được tiếp đón.” [43] Đây không chỉ là những lời nói suông : suốt nhiều thế kỷ, các đan viện Biển Đức là nơi trú thân cho các goá phụ, cho trẻ em bị bỏ rơi, khách hành hương và những người ăn mày. Đối với thánh Biển Đức, đời sống cộng đoàn là trường học của lòng bác ái. Lao động chân tay không chỉ có chức năng thực tiễn mà còn định hình tâm hồn phụng sự. Việc chia sẻ giữa các đan sĩ, việc chăm sóc người đau yếu và lắng nghe người dễ bị tổn thương nhất là bước chuẩn bị để họ chào đón Đức Ki-tô, Đấng xuất hiện trong nhân vị của người nghèo hèn và người xa lạ. Ngày nay, lòng hiếu khách của các đan viện Biển Đức vẫn là dấu chỉ của một Hội Thánh rộng mở những cánh cửa để đón tiếp và chữa lành mà không dò la hay đòi hỏi đáp lại bất cứ điều gì.
56. Qua dòng thời gian, các đan viện Biển Đức đã trở thành những nơi chốn vượt thắng thứ văn hóa loại trừ. Các đan sĩ nam nữ canh tác đất đai, sản xuất lương thực, chế biến thuốc men và đơn thành trao tặng chúng cho những ai túng thiếu nhất. Công việc thầm lặng của họ làm dậy men một nền văn minh mới mẻ, là nơi người nghèo không còn là vấn đề cần giải quyết, nhưng là anh chị em được chào đón. Quy luật về việc chia sẻ, việc chung tay lao tác và giúp đỡ người dễ bị tổn thương đã tạo lập ra nền kinh tế liên đới, tương phản với lập luận thu tích. Chứng từ của các đan sĩ cho thấy đức khó nghèo tự nguyện khác xa với việc bị bần cùng hoá, vì đấy là lối mở tự do và hiệp thông. Họ không chỉ đóng khung trong việc giúp đỡ người nghèo. Họ còn trở thành láng giềng, trở thành anh chị em trong cùng một Chúa. Trong các gian phòng nhỏ và nội vi đan viện, họ đã kiến tạo nền thần bí về sự hiện diện của Thiên Chúa nơi những người bé nhỏ.
57. Bên cạnh việc trợ giúp vật chất, các đan viện còn đóng vai trò nền tảng trong việc đào tạo văn hóa và tâm linh cho những người khiêm hạ nhất. Trong những thời kỳ dịch bệnh, chiến tranh và đói kém, các đan viện không chỉ là nơi người túng thiếu tìm kiếm bánh ăn và thuốc men, mà còn là phẩm giá và tiếng nói. Chính tại nơi đây, trẻ mồ côi được giáo dục, người học nghề được huấn luyện và người bình dân được dạy các kỹ thuật canh nông và đọc chữ. Kiến thức được chia sẻ như một quà tặng và như một bổn phận. Viện phụ vừa là người thầy vừa là người cha, và trường học của đan viện là nơi chốn tự do đến cùng chân lý. Thật vậy, như Gio-an Cát-xi-a-nô viết, đan sĩ phải biểu thị đặc điểm “khiêm nhường trong tâm hồn... là điều không phải đưa tới sự hiểu biết cao ngạo, mà dẫn đến tri thức cao minh nhờ sự vẹn toàn của đức ái.” [44] Qua việc huấn luyện lương tâm và truyền đạt khôn ngoan, các đan sĩ góp phần xây dựng một nền giáo dục Ki-tô bao hàm. Văn hóa, được ghi dấu bởi đức tin, được chia sẻ với lòng đơn sơ. Được soi sáng bởi đức ái, kiến thức trở thành việc phụng sự. Đời sống đan tu do đó được tự biểu lộ thành phong thái thánh thiện và con đường cụ thể để biến đổi xã hội.
58. Truyền thống đan viện dạy cho chúng ta rằng, cầu nguyện và bác ái, thinh lặng và phục vụ, tu phòng và bệnh viện dệt thành tấm thảm tâm linh đơn nhất. Đan viện là nơi của lắng nghe và hoạt động, của thờ phượng và chia sẻ. Thánh Bê-na-đô Cơ-lê-vô, nhà cải cách vĩ đại của Dòng Xi-tô, “kiên quyết nhắc nhở về sự cần thiết của đời sống tiết độ và chừng mực, trong phòng ăn cũng như trong y phục và các công trình xây dựng trong đan viện qua việc khuyên nhủ nâng đỡ và chăm lo cho người nghèo.” [45] Đối với người, lòng trắc ẩn không phải là điều tùy chọn, nhưng là con đường đích thực để bước theo Đức Ki-tô. Do đó, nếu trung thành với ơn gọi nguyên thủy của mình, đời sống đan tu cho thấy Hội Thánh là hiền thê trọn vẹn của Chúa một khi Hội Thánh cũng là người chị em của người nghèo. Nội vi không chỉ là nơi xa tránh thế gian, nhưng là trường học mà ở đó người ta học sao để phục vụ thế giới này tốt hơn. Nơi nào các nam nữ đan sĩ luôn mở toang cánh cửa cho người nghèo, thì nơi đó, với sự khiêm nhường và kiên định, Hội Thánh biểu tỏ rằng đời sống chiêm niệm chẳng những không loại trừ lòng thương xót mà còn đòi phải có lòng thương xót như trái ngọt thuần khiết nhất của nó.
59. Từ thời các Tông Đồ, Hội Thánh đã coi việc giải phóng những người bị áp bức là một dấu chỉ Nước Thiên Chúa. Chính Đức Giê-su đã tuyên bố ngay buổi đầu sứ vụ công khai của Người : “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha” (Lc 4,18). Dù sống trong hoàn cảnh khó khăn, các tín hữu thời đầu đã cầu nguyện và trợ giúp anh em mình đang bị giam cầm, như sách Công Vụ Tông Đồ (x. Cv 12,5 ; 24,23) và nhiều văn phẩm của các Giáo Phụ đã chứng thực. Sứ vụ giải phóng này được tiếp tục suốt nhiều thế kỷ qua những hành động thiết thực, đặc biệt là khi bi kịch nô lệ và tù đày hằn sâu trong toàn thể các tầng lớp xã hội.
60. Quãng giữa cuối thế kỷ XII và đầu thế kỷ XIII, khi nhiều Ki-tô hữu bị bắt giữ trên Địa Trung Hải hoặc bị bắt làm nô lệ trong các cuộc chiến, hai dòng tu đặc biệt đã ra đời : Dòng của Chúa Ba Ngôi Chí Thánh và của các Tù Nhân (anh em Dòng Chúa Ba Ngôi), do Thánh Gio-an Ma-ta và Thánh Phê-lích Va-loi sáng lập ; và Dòng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a Thương Xót (Các Me-chê-đa-ri-a-nô), do Thánh Phê-rô Nô-lát-cô thành lập với sự hỗ trợ của Thánh Rây-mun-đô Pê-nha-pho, Dòng Đa Minh. Các cộng đoàn những người sống đời thánh hiến này được khai sinh với đặc sủng là giải thoát các tín hữu bị bắt làm nô lệ, sẵn sàng đặt tài sản của mình để chuộc lại người bị bắt làm nô lệ [46], và nhiều lần thậm chí còn thế thân cho họ. Dòng Chúa Ba Ngôi với phương châm Gloria tibi Trinitas et captivis libertas (Lạy Ba Ngôi Chí Thánh, xin tôn vinh Ngài và tự do cho những kẻ bị giam cầm) và các Me-chê-đa-ri-a-nô, những tu sĩ thêm lời khấn thứ tư [47] vào ba lời khấn tu trì là khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục, đã làm chứng về đức ái có thể trở nên kiêu hùng. Việc giải phóng tù nhân là một diễn tả về của tình yêu Ba Ngôi : Thiên Chúa là Đấng không chỉ giải thoát khỏi cảnh nô lệ về đàng tâm linh mà còn giải thoát khỏi cảnh áp bức cụ thể. Hành động giải cứu ai đó khỏi cảnh nô lệ và tù đày được coi như sự nối dài hy tế cứu độ của Đức Ki-tô, mà máu Người là giá chuộc của chúng ta (x. 1 Cr 6,20).
61. Linh đạo nguyên thủy của các dòng này cắm sâu trong việc chiêm niệm Thánh Giá. Đức Ki-tô là Đấng Cứu Thế của các tù nhân par excellence – tuyệt vời nhất, và Hội Thánh là Thân Thể của Người, nối dài mầu nhiệm này theo dòng thời gian. [48] Các tu sĩ không coi sự cứu chuộc như một hành động chính trị hay kinh tế, mà là một hành động mang tính gần như phụng vụ, là hiến trao chính bản thân mình làm hy lễ. Nhiều người đã dâng thân mình thay thế cho các tù nhân, thực thi theo đúng nghĩa đen điều răn : “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Truyền thống của các dòng này không hề chấm dứt, trái lại, còn truyền cảm hứng cho nhiều hình thức hành động mới mẻ trước các dạng nô lệ hiện thời : buôn người, lao động cưỡng bức, bóc lột tình dục và các hình thức lệ thuộc khác. [49] Đức ái Ki-tô giáo là hành động giải thoát khi được thể hiện. Cũng vậy, trung thành với Chúa, sứ vụ của Hội Thánh là công bố sự giải thoát mọi lúc mọi thời. Ngay cả ngày hôm nay, khi “hàng triệu người – trẻ em, phụ nữ và nam giới đủ mọi lứa tuổi – bị tước đoạt tự do và bị cưỡng bách sống trong những hoàn cảnh gần như nô lệ,” [50] gia sản này vẫn được gìn giữ bởi các tu hội và tu đoàn hoạt động ở vùng ngoại vi thành phố, vùng xung đột và trên các cung đường di dân. Khi Hội Thánh cúi mình xuống để phá bỏ những xiềng xích mới trói buộc người nghèo khổ, Hội Thánh trở thành dấu chỉ Phục Sinh.
62. Chúng ta không thể kết thúc dòng suy niệm về những người bị tước đoạt tự do mà không nhắc đến những người đang ở trong các nhà tù và trung tâm giam giữ. Về điểm này, chúng ta nhớ lại lời Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nói với một nhóm tù nhân : “Đối với tôi, bước chân vào nhà tù luôn là một khoảnh khắc quan trọng, vì nhà tù là nơi của nhân tính lớn lao... Nhân tính ấy đang chịu thử thách, đôi khi bị hao mòn bởi gian nan, tội lỗi, xét đoán, hiểu lầm, đau khổ, nhưng đồng thời đầy sức mạnh, khao khát sự tha thứ và mong muốn được cứu độ.” [51] Giữa những điều khác nữa, mong ước này cũng đã được các dòng tu chuyên chăm cứu chuộc tù nhân tiếp nhận như sự phục vụ ưu tiên của Hội Thánh. Như Thánh Phao-lô đã tuyên bố : “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Ki-tô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5,1). Đây không phải chỉ là tự do nội tâm : sự tự do biểu lộ chính mình trong lịch sử như một tình yêu chăm sóc và giải thoát chúng ta khỏi mọi ràng buộc nô lệ.
63. Thế kỷ XIII, trước sự gia tăng các đô thị, nạn tập trung vào của cải và sự nảy sinh các hình thức nghèo khó mới, Chúa Thánh Thần đã cho xuất hiện kiểu sống đời thánh hiến mới mẻ trong Hội Thánh là các dòng hành khất. Không giống như mô hình đan viện ổn định, các tu sĩ hành khất đón nhận đời sống lưu động, không của cải tư chung, nhưng phó thác đời mình trọn vẹn cho Chúa Quan Phòng. Họ không chỉ đơn thuần phục vụ người nghèo : họ trở thành người nghèo với người nghèo. Họ xem đô thị như một sa mạc mới mẻ, còn những người bị gạt ra bên lề là các bậc thầy tâm linh tân kỳ. Các dòng này, chẳng hạn như các tu sĩ Phan-xi-cô, Đa Minh, Âu-tinh và Cát Minh, đã trưng ra một cuộc Cách Mạng Tin Mừng, ở đó, lối sống đơn sơ và nghèo khó trở thành dấu chỉ ngôn sứ cho sứ vụ, để làm sống lại trải nghiệm của cộng đoàn Ki-tô hữu thuở đầu (x. Cv 4,32). Chứng tá của các khất sĩ này đã thách thức cả sự xa hoa của hàng giáo sĩ lẫn thói lãnh đạm của giới thượng lưu phố thị.
64. Thánh Phan-xi-cô Át-xi-di đã trở thành hình mẫu cho mùa xuân tâm linh này. Qua việc ôm lấy cái nghèo, người muốn rập khuôn theo Đức Ki-tô, Đấng trở nên nghèo khó, bị lột trần và chịu đóng đinh trên thập giá. Trong Tu Luật của mình, người yêu cầu “các anh em không được lấy chi làm của riêng, không nhà, không nơi chốn hoặc bất kỳ thứ gì khác. Rồi như những người hành hương và lữ khách của thế giới này, để phụng sự Chúa trong nghèo khó và khiêm hạ, anh em buộc phải đi hành khất với lòng tín thác, cũng không được xấu hổ, bởi vì chính Chúa đã mặc lấy thân phận nghèo khó vì chúng ta nơi thế giới này.” Đời sống của Thánh Phan-xi-cô là hiện thân cho những ai liên lỉ sống tự huỷ : từ nơi đài các cho đến phận bị hắt hủi, từ lời hùng biện cho đến lúc thinh lặng, từ sự sở đắc cho tới việc trao tặng tất cả. Thánh Phan-xi-cô đã không thiết lập một tổ chức dịch vụ xã hội mà là một Huynh Đoàn Sống Tin Mừng. Qua cái nghèo, người đã nhìn thấy anh chị em mình là những hình ảnh sống động của Chúa. Sứ vụ của người là sống với họ, và người đã làm như vậy nhờ mối dây liên kết vượt qua các cách trở với lòng trắc ẩn. Cái nghèo của Thánh Phan-xi-cô là cái nghèo của liên đới : nó dẫn người đến chỗ trở thành người thân cận, người đồng vai đồng vế hay thực ra còn hèn mọn hơn cả tha nhân. Nét thánh thiện của người triển nở từ lòng tin tưởng rằng Đức Ki-tô chỉ có thể được thực sự đón nhận qua việc người ta rộng lượng trao gửi bản thân cho anh chị em của mình.
65. Thánh Cơ-la-ra Át-xi-di, người được Phan-xi-cô gợi hứng, đã thiết lập Dòng các Chị Em Hèn Mọn, sau này gọi là các Cơ-la-ra Hèn Mọn. Cuộc chiến tâm linh của người cốt ở việc trung thành duy trì lý tưởng nghèo khó căn cơ. Người từ chối các đặc quyền của Đức Giáo Hoàng là được bảo đảm an toàn vật chất cho tu viện của mình và kiên quyết đón nhận bằng được đặc ân từ Đức Giáo Hoàng Ghê-gô-ri-ô IX điều khoản gọi là Privilegium Paupertatis, tức ơn bảo trợ quyền được sống mà không có bất kỳ tài sản vật chất nào. Chọn lựa này nhấn mạnh đến lòng tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa và việc nhận thức rằng, sống nghèo tự nguyện là thể thức sống tự do và sống ngôn sứ. Thánh Cơ-la-ra đã khuyên bảo các chị em của người rằng Đức Ki-tô là gia sản duy nhất của họ và không điều gì có thể làm phôi pha sự hiệp thông với Người. Đời sống cầu nguyện và kín ẩn của người là tiếng hô chống lại thói thường thế gian và là tuyến phòng vệ thầm lặng cho người nghèo khó và bị bỏ quên.
66. Thánh Đa Minh Gu-man, người cùng thời với Thánh Phan-xi-cô, đã thiết lập Dòng Anh Em Giảng Thuyết với đặc sủng tuy có khác nhưng cũng triệt để về lối sống. Người muốn công bố Tin Mừng với thẩm quyền đến từ một đời sống nghèo khó, tin tưởng rằng Chân Lý cần những chứng tá vẹn toàn. Mẫu gương nghèo khó trong đời sống của họ đi liền với Lời mà họ rao giảng. Thanh thoát khỏi gánh nặng của cải thế gian, các Anh Em Đa Minh có thể dâng hiến đời mình tốt hơn cho công việc chính yếu là giảng thuyết. Họ lui tới các đô thành, đặc biệt là các đại học, để cao rao chân lý về Thiên Chúa. Qua việc phải sống nhờ người khác, họ chứng tỏ niềm tin không phải là điều bị áp đặt nhưng là một ân ban. Và qua việc sống giữa người nghèo, họ học biết được Chân Lý Tin Mừng “từ đáy thấp,” như các môn đệ Đức Ki-tô chịu khổ nhục.
67. Các dòng hành khất vì thế là lời đáp trả sống động cho sự loại trừ và thói lãnh đạm. Họ đã không minh nhiên tiến cử các cuộc cách mạng xã hội, nhưng là cuộc biến đổi cá nhân và cộng đồng hướng đến cái luận lý của Nước Trời. Đối với họ, nghèo khó không phải là hệ quả của sự khan hiếm của cải, nhưng là một chọn lựa tự do : việc làm cho mình nên hèn mọn là để chào đón những người hèn mọn. Như anh Tô-ma Xê-la-nô đã nói về Thánh Phan-xi-cô : “Người cho thấy rằng người chủ tâm yêu mến người nghèo… Người thường lột trần áo mình để mặc cho người nghèo, kẻ mà người đã cố công trở nên giống như họ.” Những người ăn mày này đã trở thành biểu tượng của một Hội Thánh lữ hành, khiêm hạ và huynh đệ, để sống giữa người nghèo không phải để cải đạo cho họ nhưng như một kinh nghiệm về căn tính thực sự của họ. Họ dạy chúng ta rằng Hội Thánh là ánh sáng khi Hội Thánh trút bỏ khỏi mình mọi thứ, rằng Hội Thánh là thánh thiện ngang qua tâm hồn khiêm hạ trao hết cho người bé mọn cùng tận giữa chúng ta.
68. Nhắm đến các nhà giáo dục, Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô đã nhắc lại rằng giáo dục luôn là một trong những biểu hiện cao quý nhất của bác ái Ki-tô giáo : “Sứ mạng của quý vị vừa đầy trở ngại vừa chan chứa niềm vui... Một sứ mạng của tình yêu, vì không thể dạy dỗ nếu không có lòng yêu mến.” [56] Theo ý nghĩa này, từ xưa các tín hữu Ki-tô đã hiểu rằng tri thức giải thoát, trao ban phẩm giá và đưa chúng ta đến gần chân lý hơn. Đối với Hội Thánh, việc dạy dỗ người nghèo là hoạt động của đức công bằng và đức tin. Được gợi hứng bởi gương mẫu của Vị Tôn Sư giáo huấn dân Người những chân lý về Thiên Chúa và về con người, Hội Thánh đã nhận lấy sứ vụ đào tạo trẻ em và thanh thiếu niên, đặc biệt những người nghèo nhất trong chân lý và tình yêu. Sứ vụ này được thể hiện cụ thể qua việc thành lập các hội dòng chuyên lo về giáo dục.
69. Vào thế kỷ XVI, cảm động trước tình trạng thiếu thốn việc giáo dục và đào tạo cho những thanh niên nghèo tại Rôma, Thánh Giu-se Ca-la-san đã thành lập trường công lập miễn phí đầu tiên ở Âu Châu, trưng dụng một số phòng ốc liền kề nhà thờ San-ta Đô-rô-tê-a thuộc khu vực Trát-tê-vê-rê. Đây là mầm mống từ đó mà có Hội Giáo Sĩ Hèn Mọn Thánh Mẫu Thiên Chúa Các Trường Đạo, còn gọi là Dòng Pi-a-rít mà sau này sẽ nổi nang và phát triển dù không ít gian nan. Mục tiêu của họ là truyền dạy cho giới trẻ “không chỉ kiến thức trần thế mà còn cả sự khôn ngoan của Tin Mừng, dạy họ nhận biết hành động yêu thương của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa và Cứu Độ trong cuộc sống cá nhân và trong dòng lịch sử.” [57] Thật vậy, chúng ta có thể xem vị linh mục can đảm này như “người sáng lập thực sự của trường Công giáo hiện đại, hướng tới việc đào tạo con người toàn diện và khai phóng cho mọi người.” [58] Được khởi hứng cùng một cảm thức nhạy bén này, Thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta La San, nhận thấy sự bất công do việc loại trừ con em công nhân và người bình dân khỏi hệ thống giáo dục nước Pháp thời bấy giờ, đã sáng lập Dòng Anh Em Các Trường Ki-tô giáo vào thế kỷ XVII, với lý tưởng trao tặng cho chúng nền giáo dục miễn phí, đào tạo vững chắc và một môi trường huynh đệ. Thánh La San xem lớp học không chỉ là nơi phát triển con người mà còn là nơi hoán cải. Trong các trường của người, cầu nguyện, phương pháp, kỷ luật và việc chia sẻ được kết hợp hài hòa. Mỗi trò được xem là một quà tặng duy nhất từ Thiên Chúa, và hoạt động giảng dạy là việc phục vụ Vương Quốc Thiên Chúa.
70. Thế kỷ XIX, cũng tại Pháp, Thánh Ma-xen-lê Sam-pa-nha đã sáng lập Hội sư huynh các trường Ma-rít. “Người nhạy bén với nhu cầu tâm linh và giáo dục của thời đại, đặc biệt là với sự thiếu hiểu biết về tôn giáo và hoàn cảnh bị bỏ rơi của giới trẻ.” [59] Người hết lòng dấn thân trong sứ vụ giáo dục và loan báo Tin Mừng cho trẻ em và thanh niên, đặc biệt là những người nghèo khổ nhất, trong thời kỳ mà cơ hội tiếp cận giáo dục vẫn còn là đặc quyền của số ít. Cùng tinh thần đó, Thánh Gio-an Bốt-cô đã bắt đầu công trình kỳ vĩ của Dòng Sa-lê-diêng tại Ý dựa trên ba nguyên lý của “phương pháp giáo dục dự phòng” – lý trí, đức tin và lòng nhân ái. [60] Chân phước An-tô ni-ô Rốt-mi-ni đã sáng lập Hội Bác Ái, trong đó “bác ái tri thức” được đặt bên cạnh “bác ái vật chất,” cùng với “bác ái mục vụ – tâm linh” được đặt lên hàng đầu, như một chiều kích không thể thiếu của mọi hành động bác ái hướng đến sự phát triển con người thiện hảo và toàn diện. [61]
71. Nhiều hội dòng nữ đã trở thành những vai chính trong cuộc cách mạng giáo dục này. Được thành lập vào thế kỷ XVIII và XIX, các hội dòng như Dòng U-su-lin, Dòng Các Chị Em Đức Bà, Dòng Ma-ét-trê Pi-ê và nhiều dòng khác, đã bước vào những nơi chốn mà giáo dục nhà nước còn vắng bóng. Họ lập trường học tại những làng quê hẻo lánh, vùng ngoại ô và khu dân nghèo công nhân. Đặc biệt, việc giáo dục các trẻ nữ trở thành ưu tiên hàng đầu. Các nữ tu đã dạy chữ, loan báo Tin Mừng, chăm lo các vấn đề thiết thực trong đời sống hằng ngày, nâng cao tinh thần qua việc phát triển nghệ thuật và, trên hết là đào tạo lương tâm. Phương pháp giáo dục của họ thật đơn sơ : gần gũi, kiên nhẫn và dịu dàng. Họ dạy bằng gương sáng đời sống của mình hơn là bằng lời nói. Trong thời kỳ nạn mù chữ lan rộng và việc loại trừ có tổ chức, thì những người nữ sống đời thánh hiến này là những ngọn hải đăng hy vọng. Sứ mạng của họ là đào luyện tâm hồn, dạy người ta biết nghĩ suy và nâng cao phẩm giá. Khi kết hợp đời sống đạo đức và dâng hiến cho tha nhân, bằng tình thương dịu dàng của những nhà giáo dục nhân danh Đức Ki-tô, họ chiến đấu với vấn nạn bỏ rơi.
72. Đối với đức tin Ki-tô giáo, giáo dục người nghèo không phải là một ân huệ mà là một bổn phận. Trẻ em có quyền tiếp cận tri thức là đòi hỏi nền tảng cho việc chân nhận phẩm giá con người. Việc dạy dỗ các em khẳng định giá trị của chúng, là trao cho các em phương tiện để biến đổi hiện thực của chúng. Truyền thống Ki-tô giáo xem tri thức là ân ban của Thiên Chúa và là trách nhiệm của cộng đồng. Giáo dục Ki-tô giáo không chỉ đào tạo những nhà chuyên môn, nhưng còn là đào tạo những con người mở lòng ra với chân, thiện, mỹ. Vì thế, khi trung thành với tên gọi của mình, các trường công giáo là những nơi chốn bao gồm việc đào tạo toàn diện và phát triển con người. Bằng việc kết hợp giữa đức tin và văn hóa, các trường này gieo mầm tương lai, tôn vinh hình ảnh Thiên Chúa và xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.
73. Kinh nghiệm di cư luôn song hành với lịch sử Dân Chúa. Áp-ra-ham lên đường mà không biết nơi ông sẽ đến ; Mô-sê dẫn dân lữ hành băng qua sa mạc ; Mẹ Ma-ri-a và Thánh Giu-se chạy trốn cùng với trẻ Giê-su sang Ai-cập. Chính Đức Ki-tô, “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11), đã sống giữa chúng ta như một người khách lạ. Vì lý do này, Hội Thánh luôn nhận thấy nơi anh chị em di dân sự hiện diện sống động của Chúa, Đấng mà vào ngày phán xét, sẽ nói với những người bên hữu Người rằng : “Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước” (Mt 25,35).
74. Thế kỷ XIX, khi hàng triệu người Âu Châu di cư tìm cuộc sống tốt đẹp hơn, hai vị thánh vĩ đại đã dấn thân trong mục vụ chăm sóc người di cư là Thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta Sca-la-bri-ni và Thánh Phan-sinh Xa-vi-ê Ca-bri-ni. Thánh Sca-la-bri-ni, Giám mục Pi-a-chen-sa, đã thành lập các Dòng Truyền Giáo Thánh Ca-rô-lô để đồng hành với người di cư đến nơi họ định cư, trợ giúp họ về tinh thần, pháp lý và vật chất. Người xem anh chị em di dân là đối tượng của một cuộc truyền giáo mới, cảnh báo về nguy cơ bị bóc lột và mất đức tin nơi đất khách quê người. Quảng đại đáp lại đặc sủng Chúa đã ban cho người, “Thánh Sca-la-bri-ni mong đợi một thế giới và một Hội Thánh không có rào cản, nơi không có một ai là khách ngoại kiều.” [62] Thánh Phan-sinh Ca-bri-ni sinh tại Ý rồi nhập quốc tịch Mỹ, là vị đầu tiên của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ được phong thánh. Để thực hiện sứ vụ trợ giúp người di cư, bà đã vượt Đại Tây Dương nhiều lần. “Với lòng can đảm phi thường, từ con số không, bà đã khởi sự các trường học, bệnh viện và trại mồ côi dành cho không biết bao nhiêu người nghèo mạo hiểm tìm đến tân thế giới để tìm việc làm. Không biết tiếng và thiếu vốn liếng để tìm được vị trí xứng hợp trong xã hội Mỹ, họ thường là nạn nhân của kẻ bất lương. Tấm lòng từ mẫu không cho phép bà ngơi tay vươn tới họ khắp mọi nơi : trong những túp lều, nhà tù và hầm mỏ.” [63] Năm Thánh 1950, Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII đã tuyên phong bà làm Quan Thầy của mọi người di cư. [64]
75. Truyền thống của Hội Thánh trong việc đồng hành với người di cư vẫn tiếp tục. Ngày nay, việc phục vụ này được bày tỏ qua các sáng kiến chẳng hạn như các trung tâm tiếp nhận người tị nạn, các sứ vụ biên cương và các nỗ lực của Caritas Quốc tế cùng nhiều tổ chức khác. Giáo huấn đương đại một lần nữa xác nhận cam kết này. Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô nhấn mạnh rằng sứ vụ của Hội Thánh với người di cư và tị nạn rộng lớn hơn nhiều, khẳng định rằng “phản ứng của chúng ta trước những thách đố của di cư thời nay có thể được tóm gọn trong bốn động từ : chào đón, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập. Tuy nhiên, những động từ này không chỉ áp dụng cho người di cư và tị nạn. Chúng mô tả sứ vụ của Hội Thánh đối với tất cả những ai sống ở các vùng ngoại vi hiện có, những người cần được chào đón, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập.” [65] Người cũng nói : “Mỗi con người đều là con Thiên Chúa ! Anh ấy hay chị ấy luôn mang hình ảnh của Đức Ki-tô ! Chính chúng ta cần nhìn nhận, và giúp người khác nhìn nhận, rằng người di cư và tị nạn không chỉ là vấn đề để giải quyết, nhưng là anh chị em cần được chào đón, tôn trọng và yêu thương. Họ là cơ may mà Chúa Quan Phòng ban cho chúng ta để giúp xây dựng một xã hội công bằng hơn, một nền dân chủ trọn vẹn hơn, một đất nước thống nhất hơn, một thế giới huynh đệ hơn và một cộng đồng Ki-tô hữu cởi mở và có tính Tin Mừng hơn.” [66] Như một người mẹ, Hội Thánh đồng hành với những ai đang bước đi. Những nơi mà thế giới này thấy những mối đe dọa, Hội Thánh nhìn thấy những đứa trẻ ; nơi người ta dựng những bức tường, Hội Thánh xây những chiếc cầu. Hội Thánh biết rằng việc công bố Tin Mừng chỉ khả tín, một khi công cuộc ấy được diễn dịch thành những cử chỉ của sự gần gũi và việc chào đón. Và Hội Thánh cũng biết rằng nơi mỗi người di dân bị từ chối, chính Đức Ki-tô đang gõ cửa cộng đồng.
76. Sự thánh thiện Ki-tô giáo thường chảy trào ở những chốn bị lãng quên và thương tổn nhất trong nhân loại. Những người nghèo nhất trong những người nghèo – những người không chỉ thiếu thốn phương tiện vật chất mà còn không có tiếng nói và phẩm giá được công nhận – có một chỗ đặc biệt trong lòng Thiên Chúa. Họ là những người được yêu thương trong Tin Mừng, là những người thừa hưởng Nước Trời (x. Lc 6,20). Chính nơi họ, Đức Ki-tô tiếp tục chịu đau khổ và sống lại. Chính nơi họ, Hội Thánh khám phá lại lời mời gọi thể hiện bản chất chân thật nhất của mình.
77. Thánh Tê-rê-xa Can-cút-ta, được tuyên thánh năm 2016, đã trở thành hình tượng về lòng bác ái phổ quát, đã sống đến mức mến thương trọn vẹn nhất dành cho những người cùng cực nhất, những người bị xã hội ruồng bỏ. Là người sáng lập Dòng Thừa Sai Bác Ái, bà đã dâng trọn đời mình cho những người hấp hối bị bỏ rơi trên các nẻo đường Ấn Độ. Bà tập hợp những người bị ruồng bỏ, lau rửa vết thương cho họ và đồng hành với họ đến lúc lìa đời bằng lòng dịu dàng và lời cầu nguyện. Tình yêu của bà dành cho những người nghèo nhất không chỉ là cách bà đáp ứng nhu cầu vật chất của họ, mà còn là loan báo Tin Mừng cho họ : “Chúng ta muốn loan báo Tin Mừng cho người nghèo rằng Thiên Chúa yêu thương họ, chúng ta yêu thương họ, họ là một người trong chúng ta, họ cũng được tạo dựng bởi bàn tay yêu thương của Thiên Chúa, để yêu thương và để được yêu thương. Người nghèo của chúng ta là những người vĩ đại, rất đáng mến, họ không cần lòng thương hại hay cảm thông, mà cần tình yêu thấu hiểu của chúng ta. Họ cần sự tôn trọng ; họ cần được đối xử đúng phẩm giá.” [67] Tất cả điều này phát xuất từ một đời sống tâm linh sâu xa, xem việc phục vụ người nghèo nhất là hoa trái của cầu nguyện và yêu thương, là nguồn mạch của bình an chân thật, như Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II đã nhắc nhở các khách hành hương đến Rô-ma trong lễ tuyên chân phước của bà : “Mẹ Tê-rê-xa tìm được sức mạnh để hoàn toàn dâng hiến mình cho tha nhân ở đâu ? Thưa, Mẹ tìm thấy sức mạnh ấy trong cầu nguyện và trong trầm mặc chiêm niêm trước Đức Giê-su Ki-tô, trước Thánh Nhan Người, trước Thánh Tâm Người. Chính bà đã bộc bạch thế này : ‘Hoa trái của sự thinh lặng là cầu nguyện ; hoa trái của cầu nguyện là đức tin ; hoa trái của đức tin là tình yêu ; hoa trái của tình yêu là phục vụ.’ Chính việc cầu nguyện đã đong đầy tâm hồn bà bằng bình an của chính Đức Ki-tô và cho phép bà lan toả bình an ấy đến cho mọi người.” [68] Thánh Tê-rê-xa không xem mình như một người làm từ thiện hay một nhà hoạt động, mà như một nàng dâu của Đức Ki-tô chịu đóng đinh trên thập tự, để phục vụ với tình yêu trọn vẹn những anh chị em đau khổ của mình.
78. Tại Ba Tây, Thánh Dun-xê của người nghèo – được mệnh danh là “thiên thần tốt lành của Bai-a” – là hiện thân tinh thần Tin Mừng với các đặc nét của dân Ba Tây. Nhắc đến bà và hai nữ tu khác được tuyên thánh cùng dịp lễ, Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô đã nhắc lại tình yêu của họ dành cho những thành viên bị gạt ra xa nhất bên lề xã hội và nói rằng những vị thánh mới “cho chúng ta thấy đời sống thánh hiến là một hành trình yêu thương tại các vùng ngoại vi hiện có trên thế giới.” [69] Nữ tu Dun-xê đã đáp lại cảnh bấp bênh bằng sự sáng tạo, các trở ngại bằng lòng dịu dàng và cảnh thiếu thốn bằng đức tin bất khả chuyển lay. Chị khởi đầu từ việc đón người bệnh vào một cái chuồng gà, rồi từ đó xây dựng một trong những dịch vụ xã hội rộng lớn nhất đất nước. Chị giúp đỡ hàng ngàn người mỗi ngày mà không hề mất đi sự dịu dàng, biến mình thành người nghèo với người nghèo vì yêu mến Đấng Nghèo Khó Nhất. Chị sống giản dị, cầu nguyện sốt sắng và vui tươi phục vụ. Đức tin của chị không có khoảng cách với thế giới, thậm chí còn cuốn chị vào sâu hơn trong đau thương của những người bé nhỏ nhất giữa chúng ta.
79. Chúng ta cũng có thể đề cập đến những cá nhân khác nữa như Thánh Biển Đức Men-ni và Các Nữ Tu Cứu Tế Thánh Tâm Chúa Giê-su, những người đã làm việc bên những người khuyết tật ; Thánh Sạc Phu-cô giữa các cộng đồng sa mạc Sa-ha-ra ; Thánh Ca-ta-ri-na Rê-xen với những nhóm người nghèo khổ nhất ở Bắc Mỹ ; Nữ tu Em-ma-nu-en, với những người thu gom rác thải trong khu phố E-bét En Na-khan tại Cai-rô ; và nhiều người khác nữa. Mỗi người theo cách riêng của mình đã khám phá ra rằng những người nghèo nhất không chỉ là đối tượng của lòng trắc ẩn, mà còn là những bậc thầy về Tin Mừng. Vấn đề không phải là “mang” Thiên Chúa đến cho họ, nhưng là gặp gỡ Người ở giữa họ. Tất cả những gương mẫu này dạy chúng ta rằng phục vụ người nghèo không phải là một cử chỉ “từ trên cao,” nhưng là một cuộc gặp gỡ giữa những người bình đẳng, nơi Đức Ki-tô được mặc khải và tôn thờ. Thánh Gio-an Phao-lô II đã nhắc nhở chúng ta rằng “có sự hiện diện đặc biệt của Đức Ki-tô nơi người nghèo, và điều này đòi hỏi Hội Thánh thực hiện sự lựa chọn ưu tiên dành cho họ.” [70] Cho nên, khi Hội Thánh cúi xuống chăm sóc người nghèo, đó là lúc Hội Thánh thể hiện tư thế cao quý nhất của mình.
80. Chúng ta cũng phải nhận thấy rằng, suốt bao nhiêu thế kỷ lịch sử Ki-tô giáo, việc giúp đỡ người nghèo và bênh vực quyền lợi của họ không chỉ là trách nhiệm của các cá nhân, gia đình, đoàn thể hay cộng đoàn tôn giáo. Đã luôn có và vẫn còn nhiều phong trào của dân chúng gồm các giáo dân và được dẫn dắt bởi những người dân lãnh đạo, những người này thường bị nghi ngờ và thậm chí bị đàn áp. Tôi muốn nói đến “tất cả những người không đi trên hành trình nhân danh cá nhân mà như một cộng đồng gắn bó chặt chẽ của mọi người và cho mọi người, một cộng đồng không bỏ rơi người nghèo và những người yếu thế phía sau... Những “người dân lãnh đạo” là những người có khả năng nối kết mọi người... Họ không xa tránh hay sợ hãi những người trẻ từng trải qua tổn thương hoặc đã mang gánh nặng thập giá.” [71]
81. Những người dân lãnh đạo này hiểu rằng sự liên đới “cũng có nghĩa là đấu tranh chống lại những nguyên nhân cơ cấu của nghèo đói và bất bình đẳng ; chống lại sự thiếu việc làm, đất đai và nhà ở ; và việc từ chối các quyền xã hội và lao động. Nghĩa là khi đối mặt với những hậu quả tàn phá của thế lực đồng tiền… Hiểu ở nghĩa sâu xa nhất, tình liên đới là cách thức thay đổi lịch sử và đó chính là điều mà các phong trào giáo dân đang thực hiện.” [72] Vì lý do đó, khi các tổ chức khác nhau suy nghĩ về nhu cầu của người nghèo, nhất thiết phải “bao gồm các phong trào của người dân và làm sinh động các cơ cấu quản trị địa phương, quốc gia và quốc tế bằng dòng năng lượng đạo đức dâng trào từ việc đưa những người bị loại trừ vào trong cuộc kiến thiết vận mệnh chung.” [73] Thực tế, các phong trào dân chúng mời gọi chúng ta vượt qua “ý niệm rằng chính sách xã hội chỉ là chính sách dành cho người nghèo, nhưng không bao giờ với người nghèo và không bao giờ là của người nghèo, chứ đừng nói đến một dự án nào đó có thể đưa mọi người lại gần nhau.” [74] Nếu các chính trị gia và các chuyên viên không lắng nghe họ, “nền dân chủ sẽ gầy mòn, biến thành khẩu hiệu, hình thức, rồi mất đi tính cách đại diện và trở nên vô hồn, vì bỏ ra ngoài những người dân trong cuộc đấu tranh hằng ngày vì phẩm giá, trong công cuộc xây dựng tương lai của họ.” [75] Về các tổ chức của Hội Thánh, cũng phải nói những điều tương tự.
82. Sự gia tăng nhanh chóng các biến chuyển công nghệ và xã hội trong hai thế kỷ qua, cùng với tất cả những mâu thuẫn và xung đột của nó, không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống của người nghèo mà còn trở thành đối tượng tranh luận và suy tư từ chính họ. Các phong trào của công nhân, phụ nữ, thanh niên và cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc, đã làm nảy sinh sự trân trọng mới mẻ về phẩm giá của những người ở bên lề xã hội. Học thuyết xã hội của Hội Thánh cũng xuất phát từ phức cảnh này. Việc phân tích mạc khải Ki-tô giáo trong bối cảnh các vấn đề xã hội, lao động, kinh tế và văn hóa hiện đại sẽ không thể thực hiện được nếu thiếu sự đóng góp của giáo dân, nam cũng như nữ, những người đã vật lộn với những vấn đề lớn của thời đại mình. Bên cạnh họ còn có những tu sĩ nam nữ là hiện thân của một Hội Thánh tiên phong trong những hướng đi mới. Sự thay đổi mang tính bước ngoặt mà chúng ta đang trải qua càng thấy cần thiết phải có sự tương tác thường xuyên giữa tín hữu và Giáo huấn của Hội Thánh, giữa người dân thường và các chuyên gia, giữa cá nhân và những tổ chức. Ở đây, một lần nữa phải thừa nhận rằng thực tại được nhìn nhận rõ nhất là từ bên lề, và người nghèo sở hữu những hiểu biết độc đáo không thể thiếu đối với Hội Thánh cũng như toàn thể nhân loại.
83. Giáo huấn của Hội Thánh trong 150 năm qua là một kho tàng quý giá về những lời dạy đầy ý nghĩa liên quan đến người nghèo. Các Giám mục Rô-ma đã loan tải những thấu hiểu mới mẻ, được tinh luyện qua quá trình phân định của giáo hội. Ví dụ, trong Thông điệp Rerum Novarum, Đức Lê-ô XIII đã đề cập đến vấn đề lao động, chỉ ra những điều kiện sống không thể chấp nhận được của nhiều công nhân nhà máy và kêu gọi thiết lập một trật tự xã hội công bằng. Các Đức giáo hoàng khác cũng đã lên tiếng về chủ đề này. Thánh Gio-an XXIII, trong Thông điệp Mater et Magistra (1961), đã kêu gọi công lý ở quy mô toàn cầu : các nước giàu không thể tiếp tục thờ ơ với những quốc gia đang khổ sở vì đói nghèo và cực kỳ thiếu thốn ; thay vào đó, họ được mời gọi quảng đại trợ giúp bằng tất cả tài sản của mình.
84. Công đồng Va-ti-ca-nô II là cột mốc đại diện đánh dấu sự hiểu biết của Hội Thánh về người nghèo trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Dù đề tài này vẫn còn chiếm vị trí khiêm tốn trong các tài liệu chuẩn bị, Thánh Gio-an XXIII, trong sứ điệp truyền tải qua sóng phát thanh vào ngày 11 tháng 9 năm 1962, một tháng trước khi khai mạc Công đồng, đã kêu gọi chú ý đến vấn đề này. Đây là những lời đáng ghi nhớ của người, “Hội Thánh trình bày chính mình như là Hội Thánh là và như Hội Thánh ước mong trở thành : Hội Thánh của tất cả mọi người và đặc biệt là Hội Thánh của người nghèo.” [76] Nỗ lực hết mình của các giám mục, các nhà thần học và chuyên gia quan tâm đến việc canh tân Hội Thánh – với sự ủng hộ của chính Thánh Gio-an XXIII – đã đưa Công đồng đi theo hướng mới. Vị trí trung tâm của Đức Ki-tô trong những suy tư này đã trở thành nền tảng cả ở cấp độ đạo lý lẫn xã hội. Nhiều nghị phụ công đồng ủng hộ lối tiếp cận này, như được diễn tả hùng hồn bởi Đức Hồng y Le-ca-rô trong bài phát biểu ngày 6 tháng 12 năm 1962 : “Mầu nhiệm Đức Ki-tô thường hằng trong Hội Thánh và hôm nay, một cách đặc biệt, là mầu nhiệm Đức Ki-tô trong người nghèo.” [77] Người còn nói rằng, “không đơn thuần là một chủ đề trong nhiều chủ đề, mà theo một nghĩa nào đó, là chủ đề duy nhất của toàn bộ Công đồng.” [78] Khi chuẩn bị bản văn cho bài phát biểu này, Đức Tổng Giám mục Bô-lô-nha đã lưu ý như sau : “Đây là thời của người nghèo, của hàng triệu người nghèo trên khắp thế giới. Đây là giờ của mầu nhiệm Hội Thánh là hiền mẫu của người nghèo. Đây là giờ của mầu nhiệm Đức Ki-tô, hiện diện đặc biệt nơi người nghèo.” [79] Đã có một nhận thức ngày càng tăng về sự cần thiết phải có một hình ảnh mới mẻ về Hội Thánh, giản dị hơn và thanh tao hơn, bao trùm toàn thể dân Chúa và sự hiện diện của Hội Thánh trong lịch sử. Một Hội Thánh rập khuôn sát sao hơn với Chúa của mình hơn là giống với các thế lực trần gian, và cần lao để thúc đẩy một cam kết cụ thể từ toàn thể nhân loại trong việc giải quyết vấn đề đói nghèo khắp cùng thế giới.
85. Mở đầu phiên họp thứ hai của Công đồng, Thánh Phao-lô VI đã tiếp nối mối quan tâm mà người tiền nhiệm của người đã nêu lên, đó là Hội Thánh phải có tầm nhìn chú ý đặc biệt “đến người nghèo, những người túng thiếu, những người ưu phiền, những người đói khát, những người đau khổ, những người bị giam cầm, nghĩa là, Hội Thánh nhìn đến toàn thể nhân loại đang đau khổ và khóc than : Hội Thánh là một phần trong họ theo quyền loan báo Tin Mừng.” [80] Trong buổi tiếp kiến chung ngày 11 tháng 11 năm 1964, người xác định rằng “người nghèo là đại diện của Đức Ki-tô” và so sánh hình ảnh của Chúa trong người nghèo với hình ảnh của Chúa được trông thấy nơi Đức Giáo hoàng. Người khẳng định chân lý này bằng những lời sau : “Sự hiện diện của Đức Ki-tô nơi người nghèo là phổ quát ; mỗi người nghèo phản chiếu Đức Ki-tô ; còn sự hiện diện của Người nơi Đức Giáo hoàng thì mang tính cá nhân... Người nghèo và Phê-rô có thể là một người duy nhất, mặc lấy một sự hiện diện kép ; một bên là sự nghèo khó, bên kia là quyền bính.” [81] Qua đó, sự liên kết nội tại giữa Hội Thánh và người nghèo được biểu đạt một cách tượng trưng và cùng với sự sáng rõ chưa từng có.
86. Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, dựa trên giáo huấn của các Giáo phụ, đã tái khẳng định mạnh mẽ sự đích chung của các của cải trần gian và chức năng xã hội của quyền sở hữu phát sinh từ đó. Hiến chế nói rằng “Thiên Chúa đã đặt định mục đích của trái đất và trong đó là để mọi người và mọi dân tộc sử dụng, sao cho của cải tạo ra phải được phân phối cho tất cả mọi người một cách hợp lý, theo sự hướng dẫn của luật công bằng đi kèm với đức bác... Khi sử dụng của cải, con người phải coi tài sản mà mình sở hữu một cách chính đáng không chỉ là của riêng mình, nhưng còn là của chung, nghĩa là của cải đó có thể sinh ích không những cho riêng mình mà còn cho cả người khác. Mặt khác, mọi người đều có quyền nhận được phần của cải đủ sống cho mình và cho gia đình... Những người trong hoàn cảnh vô cùng túng thiếu có quyền lấy những gì họ cần từ của cải của người khác... Quyền tư hữu tự bản chất cũng đã có tính cách xã hội, đặt nền tảng trên quyền chung hưởng của cải. Nếu tính cách xã hội này không được tôn trọng, thì quyền sở hữu dễ trở thành nguy cơ đưa đến tham lam và gây xáo trộn trầm trọng, đến độ tạo cớ cho những người chống đối đòi huỷ bỏ quyền tư hữu.”[3] [82] Xác tín này được Thánh Phao-lô VI nhắc lại trong Thông điệp Populorum Progressio. Ở đó, chúng ta đọc thấy rằng không ai có thể tự cho phép mình “chiếm hữu những của cải dư thừa chỉ nhằm mục đích sử dụng cho bản thân người ấy khi người khác thiếu thốn những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống.” [83] Trong bài phát biểu trước Liên Hiệp Quốc, Thánh Phao-lô VI đã lên tiếng bênh vực cho các dân tộc nghèo [84] và kêu gọi cộng đồng quốc tế xây dựng một thế giới liên đới.
87. Với Thánh Gio-an Phao-lô II, mối quan hệ ưu tiên của Hội Thánh đối với người nghèo được củng cố rõ ràng, đặc biệt từ lập trường đạo lý. Giáo huấn của người xem việc chọn lựa người nghèo là một “hình thức ưu tiên đặc biệt trong việc thực thi bác ái Ki-tô giáo, điều mà toàn bộ truyền thống Hội Thánh vẫn làm chứng.” [85] Trong Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis, người còn nói thêm : “Hơn thế nữa, ngày nay, khi vấn đề xã hội mang tầm vóc toàn cầu đã được thừa nhận, lòng bác ái ưu tiên dành cho người nghèo và những quyết định mà tình yêu này truyền cảm hứng cho chúng ta, không thể không ôm ấp cả những nhóm người mênh mông những anh chị em đói khát, túng thiếu, vô gia cư, những người không được chăm sóc y tế và, trên hết, những người không có niềm hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn. Không thể không nhìn nhận sự hiện diện của những thực tại này. Phớt lờ chúng có nghĩa là trở nên giống như ‘ông nhà giàu’ giả vờ không biết đến người ăn mày La-da-rô nằm ngay cửa nhà mình (x. Lc 16,19-31).” [86] Giáo huấn của Thánh Gio-an Phao-lô II về lao động cũng rất quan trọng cho việc suy nghĩ về vai trò tích cực mà người nghèo nên đóng góp trong sự đổi mới của Hội Thánh và xã hội, từ đó vượt qua một kiểu “bảo trợ cha chú” nào đó vốn đóng khung mình chỉ trong việc đáp ứng những nhu cầu tức thời của người nghèo. Trong Thông điệp Laborem Exercens, người thẳng thắn khẳng định rằng “lao động của con người là chìa khóa, chắc hẳn là chìa khóa thiết yếu của toàn bộ vấn đề xã hội.” [87]
88. Giữa nhiều cuộc khủng hoảng đánh dấu đầu thiên niên kỷ thứ ba, giáo huấn của Đức Biển Đức XVI mang chiều hướng chính trị rõ nét hơn. Vì thế, trong Thông điệp Caritas in Veritate, người xác nhận rằng “chúng ta càng cố gắng bảo đảm một thiện ích chung tương ứng với những nhu cầu thực sự của đồng loại, chúng ta càng yêu thương họ một cách hiệu quả hơn.” [88] Người cũng nhận thấy rằng “nạn đói không phụ thuộc quá nhiều vào việc thiếu thốn vật chất mà là do sự thiếu hụt các nguồn lực xã hội, quan trọng nhất trong số đó là vấn đề tổ chức. Nói cách khác, điều còn thiếu là một mạng lưới các tổ chức kinh tế có khả năng bảo đảm tiếp cận thường xuyên thực phẩm và nước uống đầy đủ cho nhu cầu dinh dưỡng, cũng như có khả năng giải quyết những nhu cầu chính yếu và thiết yếu phát sinh từ các cuộc khủng hoảng lương thực thật sự, dù là do thiên tai hay thiếu trách nhiệm chính trị, ở cả cấp quốc gia lẫn quốc tế.” [89]
89. Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô nhận thấy rằng trong vài thập kỷ gần đây, bên cạnh các giáo huấn của các Giám mục Rô-ma, các Hội đồng Giám mục cấp quốc gia và vùng miền cũng ngày càng lên tiếng nhiều hơn. Bản thân người có thể chứng thực, ví dụ, sự cam kết đặc biệt của hàng giáo phẩm Mỹ Châu La-tinh trong việc suy nghĩ lại mối tương quan của Hội Thánh với người nghèo. Ngay sau Công đồng Va-ti-ca-nô II, ở hầu hết các nước Mỹ Châu La-tinh, người ta cảm nhận rất rõ nhu cầu của Hội Thánh phải đồng hoá với người nghèo và tham gia tích cực vào việc bảo đảm tự do cho họ. Hội Thánh bị lay động bởi số đông những anh chị em nghèo đang khổ sở vì thất nghiệp, tình trạng thiếu việc làm, lương bổng bất cân xứng và điều kiện sống dưới mức tiêu chuẩn. Phúc tử đạo của Thánh Ốt-ca Rô-mê-rô, Tổng Giám mục San San-va-đo, là một chứng từ mạnh mẽ và nguồn cảm hứng cho Hội Thánh. Người đã để cho mình sống hoàn cảnh của đại đa số anh chị em trong đoàn chiên mình và biến họ thành trung tâm của tầm nhìn mục vụ. Các Hội nghị của các Giám mục Mỹ Châu La-tinh tổ chức tại Mê-đê-lin, Pu-ê-bla, San-tô Đô-min-gô và A-pa-rê-thi-đa cũng là những sự kiện đầy ý nghĩa đối với đời sống Hội Thánh nói chung. Về phần tôi, sau nhiều năm phục vụ như một thừa sai tại Pê-ru, tôi vô cùng biết ơn tiến trình phân định của giáo hội, tiến trình mà Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã khôn ngoan nối kết với các Hội Thánh địa phương khác, đặc biệt là các Hội Thánh ở phía Nam Bán Cầu. Tôi muốn nhấn mạnh về hai chủ đề cụ thể trong giáo huấn cấp hội đồng giám mục này.
90. Tại Mê-đê-lin, các giám mục tuyên bố ủng hộ sự chọn lựa ưu tiên dành cho người nghèo : “Đức Ki-tô, Đấng Cứu Thế của chúng ta, không chỉ yêu thương người nghèo mà ‘dù giàu có, Người đã trở nên nghèo khó.’ Người sống một cuộc đời nghèo khó, tập trung sứ vụ rao giảng việc giải thoát cho họ và thành lập Hội Thánh của Người như một dấu chỉ của sự nghèo khó này ngay giữa chúng ta... Cảnh nghèo khổ mà rất nhiều anh chị em chúng ta đang chịu đựng kêu đòi công lý, tình liên đới, lời chứng, cam kết và những nỗ lực nhằm chấm dứt nó, để sứ mạng cứu độ mà Đức Ki-tô trao phó được hoàn tất trọn vẹn.” [90] Các giám mục nhấn mạnh rằng Hội Thánh, để hoàn toàn trung thành với ơn gọi của mình, không chỉ phải chia sẻ hoàn cảnh của người nghèo mà còn phải đứng bên cạnh họ và tích cực làm việc vì sự phát triển toàn diện của họ. Trước tình trạng nghèo đói ngày càng trầm trọng ở Mỹ Châu La-tinh, Hội nghị Pu-ê-bla đã xác nhận quyết định của Hội nghị Mê-đê-lin ủng hộ một sự chọn lựa thẳng thắn và có tính ngôn sứ dành cho người nghèo, và mô tả các cấu trúc bất công là “tội xã hội.”
91. Bác ái có sức mạnh thay đổi thực tại ; đó là nguồn lực nguyên tuyền để thay đổi lịch sử. Bác ái chắc hẳn là nguồn cảm hứng và hướng dẫn mọi nỗ lực nhằm “giải quyết những nguyên nhân cơ cấu của nghèo đói,” [91] và phải được thực hiện cấp bách. Tôi hy vọng sẽ thấy ngày càng nhiều “các chính trị gia có khả năng đối thoại chân thành và hiệu quả nhằm chữa lành những căn nguyên sâu xa chứ không chỉ là những diện mạo bề ngoài của các sự dữ trong thế giới chúng ta.” [92] Vì “vấn đề là lắng nghe tiếng kêu của toàn bộ các dân tộc, những dân tộc nghèo nhất trên trái đất này.” [93]
92. Do đó, chúng ta phải tiếp tục lên án “chế độ độc tài của một nền kinh tế giết người,” và nhận ra rằng “trong khi thu nhập của một thiểu số tăng theo cấp số nhân, thì khoảng cách giữa đa số với sự thịnh vượng mà số ít may mắn đó hưởng thụ cũng tăng bội như thế. Sự mất cân bằng này là kết quả của những học thuyết bảo vệ quyền tự trị tuyệt đối của thị trường và các hoạt động đầu cơ tài chính. Do đó, chúng bác bỏ quyền hành nhà nước, vốn giữ nhiệm vụ giám sát lợi ích chung, trong việc thực thi bất kỳ hình thức kiểm soát nào. Một chế độ độc tài mới đang hình thành, không thể nhìn thấy và thường biến ảo, đơn phương và không ngừng áp đặt các luật lệ và quy tắc của riêng nó.” [94] Không thiếu các học thuyết cố gắng biện minh cho tình trạng hiện nay hoặc giải thích rằng tư duy kinh tế buộc chúng ta phải chờ đợi những lực lượng thị trường vô hình tự giải quyết mọi chuyện. Tuy nhiên, phẩm giá của mỗi con người phải được tôn trọng hôm nay chứ không phải ngày mai, và sự nghèo đói cùng cực của tất cả những ai bị tước đoạt phẩm giá đó hẳn luôn khiến cho lương tâm chúng ta day dứt.
93. Trong Thông điệp Dilexit Nos, Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô nhắc nhở rằng tội xã hội củng cố một “cấu trúc tội lỗi” trong xã hội, và thường là do “lối tư duy đang chiếm ưu thế, xem những gì chỉ là chuyện ích kỷ và sự thờ ơ là điều bình thường hay chấp nhận được. Đây là điều làm gia tăng sự tha hoá trong xã hội.” [95] Người ta dần quen với việc lãng quên người nghèo và cứ sống như thể không có người nghèo tồn tại. Người ta cũng thấy hợp lý khi phải tổ chức nền kinh tế theo lề thói đòi phải hy sinh đại chúng để phục vụ nhu cầu của những kẻ quyền thế. Trong khi đó, người nghèo chỉ được hứa hẹn nhỏ giọt, cho đến khi cuộc khủng hoảng toàn cầu kế tiếp đưa mọi thứ trở lại như cũ. Hình thái tha hoá đích thực lộ diện khi chúng ta bó mình trong các biện minh trên lý thuyết thay vì tìm cách giải quyết các vấn đề cụ thể của người đau khổ. Thánh Gio-an Phao-lô II đã nhận xét rằng “một xã hội bị tha hóa nếu các hình thức tổ chức xã hội, sản xuất và tiêu dùng của xã hội ấy gia tăng khó khăn nhiều hơn cho việc biết trao tặng và thiết lập sự liên đới giữa con người với nhau.” [96]
94. Chúng ta cần phải cam kết nhiều hơn nữa trong việc giải quyết các nguyên nhân cơ cấu của nghèo đói. Đây là một nhu cầu cấp bách “không thể trì hoãn, không chỉ vì lý do thực tiễn là nó rất cần thiết cho trật tự ổn định của xã hội, mà vì xã hội cần được chữa lành một căn bệnh làm suy yếu và làm hỏng chính mình và chỉ có thể dẫn đến những cuộc khủng hoảng mới. Các dự án phúc lợi đáp ứng những nhu cầu cấp thiết nhất định, nên chỉ được xem như những đáp ứng tạm thời.” [97] Tôi chỉ muốn nhắc lại một lần nữa rằng bất bình đẳng “là gốc rễ của các căn bệnh xã hội.” [98] Thật vậy, “trên thực tế, điều mà ai cũng thường thấy rõ ràng là nhân quyền không đồng đều cho tất cả.” [99]
95. Hiện tại, “mô hình xã hội nhấn mạnh đến thành công và tự lực có vẻ không ủng hộ việc đầu tư vào những nỗ lực giúp người chậm phát triển, yếu thế hoặc ít tài năng tìm được cơ hội trong cuộc sống.” [100] Các câu hỏi tương tự vẫn luôn được đặt ra với chúng ta : Liệu điều đó hàm nghĩa rằng những người ít tài khéo hơn không phải là con người ? Hay những người yếu đuối không có phẩm giá ngang bằng với chúng ta ? Những người sinh ra với ít cơ hội hơn có kém giá trị làm người hơn không ? Họ có nên chỉ giới hạn mình trong việc sống sót qua ngày ? Giá trị của xã hội chúng ta và tương lai của chính chúng ta phụ thuộc vào câu trả lời của chúng ta trước những câu hỏi này. Chúng ta sẽ tái hồi phẩm giá đạo đức và tinh thần hay để cho mình lọt thỏm vào hố nhơ. Nếu chúng ta không dừng lại và xem trọng vấn đề này, chúng ta sẽ còn tiếp tục một cách công khai hoặc lén lút “hợp pháp hóa mô hình phân phối hiện nay, nơi một thiểu số tin rằng họ có quyền tiêu dùng theo cách không bao giờ có thể trở thành phổ biến, vì hành tinh này thậm chí không thể chứa nổi chất thải được tạo ra từ thói tiêu dùng như vậy.” [101]
96. Một vấn đề cơ cấu không thể được giải quyết theo kiểu siêu thực từ trên xuống nhưng cần được thực hiện càng nhanh càng tốt tại các địa phương, khu phố, nhà cửa và thành phố nơi người nghèo sinh sống hằng ngày. Tất cả chúng ta đều trân trọng vẻ đẹp của “những thành phố khắc chế được tình trạng tê liệt vì mất niềm tin, những thành phố hòa hợp được những người khác biệt và biến chính sự hòa hợp này thành nhân tố phát triển mới ! Thật hấp dẫn biết bao nơi những thành phố mà ngay trong thiết kế kiến trúc cũng đầy những không gian kết nối, tương tác và thúc đẩy sự nhận biết tha nhân !” [102] Tuy vậy, cùng lúc ấy, “chúng ta không thể không xem xét các tác động lên cuộc sống con người do suy thoái môi sinh, do các mẫu hình phát triển hiện thời và văn hóa vứt bỏ sau một lần sử dụng.” [103] Vì “sự suy thoái môi trường và xã hội ảnh hưởng nặng nề nhất đến những người dễ tổn thương nhất trên hành tinh.” [104]
97. Tất cả thành viên Dân Chúa đều có bổn phận cất tiếng để người ta nghe thấy dưới nhiều cách thức khác nhau, để chỉ ra và tố cáo những vấn đề mang tính cơ cấu này, dù có thể trả giá bằng việc bị coi là ngớ ngẩn ngây ngô. Các cơ cấu bất công cần được nhận diện và xóa bỏ bằng sức mạnh của điều thiện, bằng cách thay đổi tư duy nhưng cũng nhờ khoa học và công nghệ, thông qua các chính sách có hiệu quả để thay đổi xã hội. Không bao giờ được quên rằng Tin Mừng không chỉ nói về mối tương quan cá nhân với Chúa, mà còn là điều lớn lao hơn : “Nước Thiên Chúa (x. Lc 4,43) ; đó là yêu mến Thiên Chúa, Đấng ngự trị trong thế giới chúng ta. Để khi Người ngự trị trong chúng ta, đời sống xã hội sẽ trở thành bối cảnh phổ quát của tình huynh đệ, công lý, hòa bình và phẩm giá. Do đó, cả việc rao giảng và đời sống Ki-tô giáo đều là phương thế tác động lên xã hội. Chúng ta đang mưu cầu Vương quốc Thiên Chúa.” [105]
98. Cuối cùng, trong một tài liệu ban đầu không được mọi người đón nhận rộng rãi, chúng ta tìm thấy một suy tư vẫn còn rất thời sự ngày nay : “Những người bảo vệ chính thống đôi khi bị cáo buộc là thụ động, bao dung thái quá, hoặc đồng lõa phạm tội vì liên quan tới các tình huống bất công không thể dung thứ và các chế độ chính trị kéo dài những tình trạng ấy. Việc hoán tâm hồn, mức độ yêu thương dành cho Thiên Chúa và tha nhân, nhiệt tâm cho công lý và hòa bình, ý nghĩa Tin Mừng đối với người nghèo và sự túng thiếu, là những điều cần thiết đối với tất cả mọi người, đặc biệt là các mục tử và những ai ở các vị trí chịu trách nhiệm. Mối bận tâm về sự trong sáng của đức tin đòi phải đáp trả bằng một chứng tá hiệu quả trong việc phục vụ tha nhân, đặc biệt là người nghèo và những người bị áp bức trong cung cách mang tính thần học toàn diện.” [106]
99. Đời sống của Hội Thánh hoàn vũ được phong phú nhờ cuộc phân định tại Hội nghị A-pa-rê-thi-đa, nơi mà các giám mục Mỹ Châu La-tinh chỉ rõ rằng sự lựa chọn ưu tiên dành cho người nghèo của Hội Thánh “là mặc nhiên trong niềm tin vào Thiên Chúa mang tính Ki-tô học, Thiên Chúa đã trở nên nghèo khó vì chúng ta, để làm cho chúng ta trở nên giàu có bằng cái nghèo của Người.” [107] Văn kiện A-pa-rê-thi-đa đặt sứ mạng của Hội Thánh trong bối cảnh của một thế giới toàn cầu hóa đương đại, được nghi dấu bởi những bất cân xứng mới mẻ và nghiêm trọng. [108] Trong Thông điệp đúc kết sau cùng, các giám mục viết : “Sự khác biệt rõ rệt giữa người giàu và người nghèo mời gọi chúng ta làm việc tận tâm hơn nữa để trở thành những môn đệ có khả năng chia sẻ bàn tiệc đời sống, bàn tiệc của tất cả con cái của Cha Trên Trời, bàn tiệc mở rộng và bao dung, ở đó, không có một ai bị loại trừ. Vì thế, chúng ta tái khẳng định lựa chọn ưu tiên và mang tính Tin Mừng dành cho người nghèo.” [109]
100. Tài liệu đồng thời tiếp nối chủ đề đã được bàn thảo trong các kỳ hội nghị của các giám mục Mỹ Châu La-tinh, nhấn mạnh sự cần thiết phải xem các cộng đồng bị gạt ra ngoài lề xã hội như những chủ thể có khả năng tạo ra nền văn hóa đặc trưng của mình, chứ không phải là những đối tượng để người khác làm bác ái. Điều này có nghĩa là những cộng đồng ấy có quyền đón nhận Tin Mừng và cử hành, truyền thông đức tin phù hợp với những giá trị hiện hữu trong những nền văn hóa riêng của họ. Kinh nghiệm về sự nghèo khổ giúp họ nhận ra những khía cạnh của thực tại mà người khác không thể biết ; vì lý do này mà xã hội cần lắng nghe họ. Điều này cũng đúng với Hội Thánh, rằng nên nhìn nhận tích cực “việc thực hành đức tin phổ biến” của họ. Một trích đoàn tiêu biểu trong Tài liệu A-pa-rê-thi-đa giúp ta suy gẫm về điểm này và cách đáp trả phù hợp : “Chỉ có sự gần gũi làm cho chúng ta trở nên bằng hữu mới cho phép chúng ta trân trọng sâu sắc những giá trị của người nghèo hôm nay, những ước muốn chính đáng của họ và cách sống đức tin của chính họ… Từng ngày, người nghèo trở thành tác nhân loan báo Tin Mừng và thúc đẩy sự phát triển con người toàn diện : họ giáo dục con cái trong đức tin, dấn thân vào mối liên đới hằng ngày giữa người những người họ hàng và láng giềng, luôn tìm kiếm Thiên Chúa và trao dâng đời sống cho cuộc lữ hành của Hội Thánh. Dưới ánh sáng Tin Mừng, chúng ta nhận ra phẩm giá cao cả và giá trị thánh thiêng của họ trong mắt Đức Ki-tô, Đấng nghèo như họ và bị loại trừ cùng họ. Dựa trên kinh nghiệm đức tin này, chúng ta sẽ cùng họ bảo vệ quyền lợi của họ.” [110]
101. Tất cả những điều này đưa đến một khía cạnh của lựa chọn ưu tiên dành cho người nghèo mà chúng ta phải luôn ghi nhớ, đó là nó đòi hỏi ở chúng ta một thái độ biết chú tâm đến người khác. “Sự quan tâm yêu thương này là khởi đầu của mối bận tâm thực sự đối với nhân vị của họ, có hiệu lực thúc đẩy tôi tìm kiếm điều thiện hảo cho họ. Điều này đòi hỏi việc trân trọng người nghèo nơi sự tốt lành của họ, nơi kinh nghiệm cuộc sống, trong văn hóa và cách sống đức tin của họ. Tình yêu thật sự luôn luôn là chiêm niệm, và cho phép chúng ta phục vụ người khác không phải vì hoàn cảnh bắt buộc hay vì những phù hoa, mà đúng hơn, vì người ấy đẹp đẽ hơn và vượt quá những vẻ ngoài thuần tuý... Chỉ dựa trên sự gần gũi chân thực và chân thành này, chúng ta mới có thể đồng hành một cách thích đáng với người nghèo trên con đường giải phóng của họ.” [111] Vì lý do này, tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với tất cả những ai đã chọn sống giữa người nghèo, không chỉ dành dịp thỉnh thoảng đến thăm mà thực sự sống với họ như họ đang sống vậy. Quyết định như thế nên được nhìn nhận là một trong những hình thức sống Tin Mừng cao quý nhất.
102. Qua sự soi sáng này, rõ ràng tất cả chúng ta phải “để mình được loan báo Tin Mừng” [112] bởi người nghèo và chân nhận “sự khôn ngoan nhiệm mầu mà Thiên Chúa muốn chia sẻ với chúng ta thông qua họ.” [113] Vì sinh trưởng trong những hoàn cảnh bấp bênh, học cách sinh tồn trong những điều kiện khó khăn nhất, tín thác vào Thiên Chúa khi đoan chắc rằng chẳng còn một ai thực sự quan tâm đến họ và giúp đỡ nhau trong những lúc tăm tối nhất, người nghèo đã học được nhiều điều mà họ chôn sâu trong lòng mình. Những ai trong chúng ta chưa từng trải qua những kinh nghiệm sống như vậy chắc chắn có rất nhiều điều để học hỏi từ nguồn khôn ngoan là kinh nghiệm của người nghèo. Chỉ qua việc nối liền những lời than phiền của chúng ta với những đau khổ và thiếu thốn của họ, chúng ta mới có thể nghiệm ra được lời khiển trách khả dĩ thách thức chúng ta có biết sống dung dị hay không.
103. Tôi đã chọn việc khơi lại lịch sử lâu đời về việc Hội Thánh chăm lo cho người nghèo và cùng với người nghèo để làm rõ rằng điều này luôn là một phần trọng tâm trong đời sống của Hội Thánh. Thật vậy, chăm sóc người nghèo là một phần của truyền thống vĩ đại của Hội Thánh, là ngọn hải đăng của ánh sáng Tin Mừng soi sáng tâm hồn và dẫn lối cho các quyết định của các Ki-tô hữu qua mọi thời đại. Đó là lý do tại sao chúng ta phải cảm thấy có trách nhiệm mời gọi mọi người cùng chia sẻ ánh sáng và sự sống phát sinh từ việc nhận ra Đức Ki-tô trong khuôn mặt của những người đau khổ và những người đang cần giúp đỡ. Tình yêu dành cho người nghèo là một yếu tố thiết yếu trong lịch sử Thiên Chúa đối đãi với chúng ta ; nó phát sinh từ tấm lòng của Hội Thánh như một lời kêu gọi không ngừng gửi đến tâm hồn các tín hữu, xét về cả cá nhân lẫn cộng đồng. Là thân mình của Đức Ki-tô, Hội Thánh cảm nhận cuộc sống của người nghèo như cảm nhận chính “thân xác” mình, vì họ giữ một vị trí đặc biệt trong dân lữ hành của Thiên Chúa. Do đó, tình yêu dành cho người nghèo – bất kể hình thức nghèo đói khả dĩ nào họ mang – là dấu ấn Tin Mừng của một Hội Thánh trung tín với tấm lòng của Thiên Chúa. Thật vậy, một trong những ưu tiên của mọi phong trào canh tân giữa lòng Hội Thánh luôn là sự quan tâm ưu tiên dành cho người nghèo. Theo nghĩa này, công cuộc Hội Thánh thực hiện với người nghèo có sự khác biệt về nguồn cảm hứng và phương pháp so với công việc của bất kỳ tổ chức nhân đạo nào khác.
104. Không một Ki-tô hữu nào có thể xem người nghèo chỉ đơn giản là một vấn đề xã hội ; họ là thành phần trong “gia đình” chúng ta. Họ là “một người trong chúng ta.” Tương quan của chúng ta với người nghèo cũng không thể bị giản lược vào một hoạt động hay một chức năng đơn thuần của Hội Thánh. Như Tài liệu A-pa-rê-thi-đa đã nói, “chúng ta được yêu cầu dành thời gian cho người nghèo, dành sự quan tâm yêu thương, chân thành lắng nghe họ, ở bên họ trong những lúc khó khăn, quyết dành thời giờ sống với họ tuần này năm khác trong cuộc đời, và cố gắng biến đổi hoàn cảnh của họ, bắt đầu từ nơi họ. Chúng ta không thể quên rằng đó chính là điều chính Đức Giê-su đã đề nghị bằng các hành động và lời nói của Người.” [114]
105. Nền văn hóa thống trị ở đầu thiên niên kỷ này muốn chúng ta bỏ mặc người nghèo cho số phận của họ và coi họ không đáng được chú ý huống hồ là tôn trọng. Trong Thông điệp Fratelli Tutti, Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô đã thách thức chúng ta suy gẫm về dụ ngôn Người Sa-ma-ri nhân hậu (x. Lc 10,25-37), dụ ngôn kể lại phản ứng khác nhau của những người gặp cảnh một người bị thương đang nằm bên đường. Chỉ có người Sa-ma-ri nhân hậu dừng lại và chăm sóc ông ta. Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô tiếp tục hỏi từng người trong chúng ta : “Bạn đồng cảm với nhân vật nào trong số những người đó ? Đây là câu hỏi thẳng thừng, rất trực diện và sắc bén. Bạn giống ai trong số những nhân vật đó ? Chúng ta phải thừa nhận rằng chúng ta luôn bị cám dỗ phớt lờ người khác, đặc biệt là những người yếu đuối. Hãy thành thật thừa nhận rằng, bất chấp mọi tiến bộ, chúng ta vẫn ‘mù chữ’ trong việc đồng hành, chăm sóc và hỗ trợ những thành viên yếu đuối và dễ bị tổn thương nhất trong xã hội phát triển của chúng ta. Chúng ta đã quen nhìn đi chỗ khác, băng ngang và phớt lờ các hoàn cảnh cho đến khi chúng ảnh hưởng trực tiếp đến mình.” [115]
106. Quan trọng là chúng ta phải nhận ra rằng câu chuyện Người Sa-ma-ri nhân hậu vẫn còn thời sự cho đến hôm nay. “Nếu tôi gặp một người đang ngủ ngoài trời trong đêm lạnh, tôi có thể xem người ấy là sự phiền phức, một người lười biếng, một chướng ngại trên đường tôi đi, một cảnh tượng khó chịu, một vấn đề để các chính trị gia giải quyết, hay thậm chí là một mảnh rác làm bẩn không gian công cộng. Hoặc tôi có thể đáp trả bằng đức tin và đức ái, và nhìn thấy trong người ấy một con người có phẩm giá như chính tôi, một thụ tạo được Chúa Cha yêu thương vô tận, một hình ảnh của Thiên Chúa, một anh chị em được Đức Giê-su Ki-tô cứu độ. Đó là điều làm nên người Ki-tô hữu ! Nào ai có thể hiểu được sự thánh thiện tách rời khỏi sự nhận biết sống động về phẩm giá của mỗi con người như thế ?” [116] Người Sa-ma-ri nhân hậu đã làm gì ?
107. Những câu hỏi này càng trở nên cấp bách hơn khi chúng ta nhìn thấy một khuyết điểm nghiêm trọng trong đời sống xã hội, cũng như trong các cộng đoàn Ki-tô hữu của chúng ta. Nhiều hình thức thờ ơ xung quanh ta thực sự là “các dấu hiệu của một cách tiếp cận cuộc sống đang lan rộng theo những cách thức khác nhau và tinh vi. Hơn nữa, vì mải mê với nhu cầu bản thân, cảnh tượng một người đang đau khổ làm ta rối trí. Nó làm ta khó chịu, vì chúng ta không có thời gian để lãng phí cho những vấn đề của người khác. Đây là những triệu chứng của một xã hội không lành mạnh. Một xã hội tìm kiếm sự thịnh vượng nhưng quay lưng lại với đau khổ. Chúng ta đừng để mình rơi xuống những hố sâu như thế ! Hãy nhìn vào tấm gương Người Sa-ma-ri nhân hậu.” [117] Lời cuối cùng trong dụ ngôn Tin Mừng này là một mệnh lệnh mà mọi Ki-tô hữu phải ghi nhớ mỗi ngày : “Hãy đi, và cũng làm như vậy” (Lc 10,37).
108. Vào một thời điểm đặc biệt khó khăn trong lịch sử Hội Thánh tại Rô-ma, khi các thể chế đế quốc sụp đổ dưới sức ép của các cuộc xâm lược của người man-di, Thánh Giáo hoàng Ghê-gô-ri-ô Cả thấy cần thiết nhắc nhở tín hữu rằng : “Giây phút nào chúng ta cũng có thể thấy La-da-rô nếu chúng ta đi tìm, và mỗi ngày, ngay cả khi không tìm, ta cũng thấy một người ngay trước cửa nhà mình. Hiện giờ những kẻ ăn xin vây quanh chúng ta, xin của bố thí ; sau này, họ sẽ là những trạng sư của chúng ta... Vì vậy đừng bỏ lỡ cơ hội làm việc lành ; đừng tích trữ hoài phí những điều tốt đẹp bạn có.” [118] Thánh Ghê-gô-ri-ô đã can đảm tố cáo những định kiến đương thời đối với người nghèo, bao gồm cả việc tin rằng họ phải tự chịu trách nhiệm về cảnh ngộ của mình : “Bất cứ khi nào bạn thấy người nghèo làm điều đáng trách, đừng khinh rẻ hay nghi ngờ họ, vì ngọn lửa nghèo khó có thể đang thanh luyện những hành động tội lỗi của họ, dù là nhỏ bé.” [119] Không hiếm khi sự thịnh vượng của chúng ta khiến chúng ta mù quáng trước nhu cầu của người khác, và thậm chí làm chúng ta nghĩ rằng hạnh phúc và sự trọn vẹn của mình chỉ phụ thuộc vào bản thân, không cần đến người khác. Trong những trường hợp như thế, người nghèo có thể đóng vai trò những thầy dạy thầm lặng của chúng ta, khiến chúng ta ý thức về thói cao ngạo của mình và truyền cho ta tinh thần khiêm nhường đúng mực.
109. Mặc dù đúng là người giàu thì quan tâm đến người nghèo, nhưng điều ngược lại cũng đúng không kém. Đây là một thực tế đáng chú ý được toàn bộ truyền thống Ki-tô giáo xác nhận. Cuộc đời có thể thay đổi nhờ nhận ra người nghèo có rất nhiều điều để dạy chúng ta về Tin Mừng và những đòi hỏi của Tin Mừng. Qua chứng tá thầm lặng của họ, họ khiến chúng ta đối diện với sự mong manh của cuộc hiện sinh. Người già chẳng hạn, với thân thể yếu ớt, nhắc nhở chúng ta về sự mong manh của bản thân, dù ta cố che giấu nó sau vẻ ngoài thịnh vượng của mình. Người nghèo cũng nhắc nhở chúng ta về thái độ kiêu căng hung hăng vô cớ mà ta thường dùng để đối đầu với những khó khăn trong cuộc sống. Họ làm chúng ta nhận ra sự bất định và trống rỗng của cuộc sống tưởng chừng an toàn và vững chắc của chúng ta. Ở đây, Thánh Ghê-gô-ri-ô Cả cũng có nhiều điều để nói với chúng ta : “Đừng có ai tự xem mình là vững vàng rồi nói, ‘Tôi không ăn cắp của người khác, tôi chỉ hưởng những gì thuộc về tôi cách hợp pháp.’ Ông nhà giàu không bị trừng phạt vì lấy của người khác, nhưng bởi vì, trong khi sở hữu của cải kếch xù như vậy, ông ta đã bần cùng hoá mình từ bên trong. Đó chính là lý do khiến ông ta bị kết án sa hoả ngục : trong sự thịnh vượng, ông ta không giữ được ý thức về sự công bằng ; của cải mà ông ta thu vào đã làm ông ta ra kiêu ngạo và khiến ông mất hết cảm thức về lòng trắc ẩn.” [120]
110. Đối với những người Ki-tô hữu chúng ta, vấn đề người nghèo dẫn ta vào tận tâm điểm đức tin mình. Thánh Gio-an Phao-lô II đã dạy rằng sự lựa chọn ưu tiên dành cho người nghèo, tức là tình yêu của Hội Thánh dành cho người nghèo, “là điều thiết yếu đối với Hội Thánh và là một phần truyền thống thường hằng của Hội Thánh, thúc đẩy Hội Thánh quan tâm đến một thế giới trong đó sự nghèo đói đang đe dọa lan rộng với quy mô lớn mặc dù có tiến bộ về công nghệ và kinh tế.” [121] Đối với các Ki-tô hữu, người nghèo không phải là một phạm trù xã hội học, mà là chính “thân xác” của Đức Ki-tô. Việc tuyên xưng đạo lý về Mầu Nhiệm Nhập Thể của Thiên Chúa nói chung là chưa đủ. Để thực sự bước vào mầu nhiệm lớn lao này, chúng ta cần hiểu rõ rằng Chúa đã mặc lấy một thân xác chịu đói chịu khát và kinh qua bệnh tật cũng như tù đày. “Một Hội Thánh nghèo vì người nghèo bắt đầu bằng việc đưa tay trợ giúp thân xác của Đức Ki-tô. Nếu chúng ta trợ giúp thân xác của Đức Ki-tô, chúng ta bắt đầu hiểu được sự nghèo đói này, sự nghèo đói của Chúa thực sự là gì ; nhưng điều này không hề dễ dàng.” [122]
111. Bản chất của Hội Thánh là sự liên đới với người nghèo, người bị loại trừ, người bị gạt ra ngoài lề và tất cả những ai bị coi là người ngoài lề xã hội. Người nghèo nằm trong trái tim Hội Thánh bởi vì “đức tin của chúng ta nơi Đức Ki-tô, Đấng đã trở nên nghèo và luôn gần gũi với người nghèo và những người bị loại trừ, là nền tảng cho sự quan tâm của chúng ta đến sự phát triển toàn diện của những thành viên bị xã hội bỏ quên nhất.” [123] Nơi tâm hồn mình, chúng ta nhận thấy “cần phải lắng nghe lời khẩn khoản này, phát sinh từ hành động giải phóng của ân sủng trong mỗi chúng ta, và vì thế đây không phải là một sứ mạng chỉ dành cho một số ít người.” [124]
112. Đôi khi, có các phong trào hoặc nhóm hội Ki-tô hữu nổi lên mà vẫn thiếu hoặc không quan tâm đến lợi ích chung của xã hội, đặc biệt là việc bảo vệ và thăng tiến vị thế của những thành viên dễ bị tổn thương và thiệt thòi nhất. Tuy nhiên, chúng ta không bao giờ được quên rằng tôn giáo, đặc biệt là Ki-tô giáo, không thể giới hạn trong phạm vi riêng tư, như thể các tín hữu không có quyền phát biểu ý kiến liên quan đến các vấn đề ảnh hưởng đến xã hội dân sự và các mối quan tâm của các thành viên trong đó. [125]
113. Thật vậy, “bất kỳ cộng đoàn Hội Thánh nào, nếu nghĩ rằng mình có thể thoải mái đi theo con đường riêng mà không có sự quan tâm sáng tạo và hợp tác hiệu quả trong việc trợ giúp người nghèo sống đúng phẩm giá và vươn tay giúp đỡ mọi người, cũng sẽ có nguy cơ tan vỡ, dù họ có nói nhiều về các vấn đề xã hội hay chỉ trích các chính phủ đến đâu. Cộng đoàn đó sẽ dễ dàng trượt vào một thế giới thần thiêng giả tạo được ngụy trang bởi các thực hành tôn giáo, các cuộc họp mặt không hiệu quả và những lời nói trống rỗng.” [126]
114. Và không đơn thuần là việc trợ giúp phúc lợi và làm việc để đảm bảo công bằng xã hội. Người Ki-tô hữu cũng nên nhận thức về một hình thức bất nhất khác trong cách họ đối xử với người nghèo. Thực tế, “sự phân biệt tồi tệ nhất mà người nghèo phải chịu là thiếu sự chăm sóc về mặt tinh thần… Sự lựa chọn ưu tiên của chúng ta dành cho người nghèo phải được thể hiện chủ yếu qua sự quan tâm ưu tiên nhu cầu tôn giáo cách đặc biệt.” [127] Tuy nhiên, sự quan tâm về đàng tinh thần này đối với người nghèo bị đặt dấu hỏi, ngay cả trong giới Ki-tô hữu, bởi một số định kiến nào đó xuất phát từ việc chúng ta thấy dễ dàng làm ngơ với người nghèo. Có những người còn nói : “Nhiệm vụ của chúng ta là cầu nguyện và giảng dạy đạo lý đúng đắn.” Họ tách rời khía cạnh tôn giáo này khỏi sự phát triển toàn diện, và còn nói rằng việc chăm sóc người nghèo là trách nhiệm của chính quyền, hoặc tốt hơn là không vực họ lên khỏi cảnh nghèo khổ mà chỉ nên dạy họ cách làm việc. Đôi khi, có những dữ liệu nguỵ khoa học được viện dẫn để hỗ trợ cho quan điểm rằng kinh tế thị trường tự do sẽ tự động giải quyết vấn đề nghèo đói. Thậm chí còn có người cho rằng chúng ta nên chọn khoản mục vụ với tầng lớp được gọi là tinh hoa, vì thay vì tốn thời gian cho người nghèo, sẽ là tốt hơn nếu quan tâm đến người giàu, những người có ảnh hưởng và là các chuyên viên, để nhờ sự giúp đỡ của họ mà có thể tìm ra giải pháp thực sự và Hội Thánh sẽ cảm thấy được bảo vệ. Rõ ràng có thể nhận ra tính thế gian đằng sau những quan điểm này, vì nó khiến chúng ta nhìn thực tại qua lăng kính nông cạn, thiếu ánh sáng từ trên cao và vun đắp các mối quan hệ đem lại sự an toàn và vị trí đặc quyền.
115. Tôi muốn kết thúc bằng đôi lời về việc bác ái mà ngày nay, ngay cả trong cộng đoàn tín hữu cũng không được nhìn nhận một cách tích cực. Việc bác ái không chỉ ít được thực hành, mà thậm chí đôi khi còn bị xem thường. Cho phép tôi phát biểu một lần nữa rằng cách quan trọng nhất để giúp những người khó khăn là giúp họ tìm được một công việc tốt, để họ có thể sống một cuộc đời xứng đáng hơn bằng cách phát triển khả năng của mình và đóng góp phần chia sẻ đúng mực của họ. Theo nghĩa này, “thiếu việc làm không chỉ đơn thuần là không có nguồn thu nhập ổn định. Việc làm là vậy, nhưng nó còn có nhiều điều hơn thế. Nhờ làm việc, chúng ta trở nên một con người toàn diện hơn, nhân tính của chúng ta thăng hoa và những người trẻ chỉ thực sự trưởng thành qua công việc. Học thuyết xã hội của Hội Thánh luôn nhìn nhận việc lao động của con người như một sự tham gia vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa vẫn đang tiếp tục mỗi ngày, cũng nhờ có đôi tay, trí óc và trái tim của người lao động.” [128] Mặt khác, nơi mà điều này là bất khả, chúng ta vẫn không thể liều lĩnh bỏ rơi tha nhân trong thân phận thiếu thốn những điều cần thiết để sống một cuộc đời xứng hợp. Vì vậy, làm việc bác ái vẫn còn là phương tiện cần thiết để tiếp xúc, gặp gỡ và cảm thông với những người kém may mắn.
116. Những ai được thúc đẩy bởi tình yêu thương đích thực đều hiểu rõ rằng việc bác ái không miễn cho những giới chức có thẩm quyền khỏi trách nhiệm của họ, không loại bỏ bổn phận của các tổ chức chính phủ trong việc chăm sóc người nghèo, cũng không giảm trừ nỗ lực chính đáng nhằm đảm bảo công lý. Ít nhất, việc bác ái mang đến cho chúng ta cơ hội dừng lại trước người nghèo, nhìn vào mắt họ, chạm vào họ và chia sẻ phần nào bản thân mình với họ. Cách nào đi nữa, dù thật khiêm tốn, thì việc bác ái cũng là để cho lòng từ ái – pietas chạm đến một xã hội mang dấu ấn của việc điên cuồng chạy theo lợi ích cá nhân. Như lời sách Châm ngôn : “Người tử tế sẽ được chúc phúc, vì đã đem cơm bánh cho người nghèo” (Cn 22,9).
117. Cả Cựu Ước và Tân Ước đều có những bài ca khen ngợi việc bác ái : “Hãy rộng lượng với kẻ nghèo hèn, đừng chần chừ khi phải bố thí… Rộng tay bố thí là con chất đầy kho lẫm, và con sẽ thoát mọi nỗi gian nguy” (Hc 29,8.12). Chính Đức Giê-su cũng nói : “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá” (Lc 12,33).
118. Thánh Gio-an Kim Khẩu nổi tiếng với câu nói : “Việc bác ái là đôi cánh của lời cầu nguyện. Nếu bạn không cung cấp cho lời cầu nguyện của bạn đôi cánh, nó sẽ khó mà bay lên được.” [129] Cùng một tâm trạng đó, Thánh Ghê-gô-ri-ô Na-di-en kết thúc bài diễn thuyết nổi tiếng của người bằng những lời này : “Vì thế, thưa anh em là tôi tớ Đức Ki-tô, là anh em của Người, là những kẻ đồng thừa tự với Người, nếu anh em tin tôi thì bao lâu còn có thể, chúng ta hãy thăm viếng Đức Ki-tô, hãy săn sóc Đức Ki-tô, hãy cho Đức Ki-tô ăn, hãy cho Đức Ki-tô mặc, hãy đón tiếp Đức Ki-tô , hãy tôn kính Đức Ki-tô. Chúng ta không chỉ mời Người vào bàn như ai đó đã làm, không chỉ lo xức dầu thơm cho Người như cô Ma-ri-a, cũng không phải chỉ lo an táng Người như ông Giô-xép người thành A-ri-ma-thê, cũng không chỉ lo liệu mọi việc để liệm xác Người như ông Ni-cô-đê-mô, là người yêu mến Đức Ki-tô phần nào ; và sau cùng, cũng không phải chỉ dâng cho Chúa vàng, nhũ hương và một dược, như các hiền sĩ đã làm trước những người vừa kể trên, nhưng vì Chúa là Chúa mọi người, Chúa muốn lòng thương xót chứ không muốn hy lễ… nên chúng ta hãy dâng cho Chúa của lễ ấy qua tay những người nghèo khổ, những người hôm nay hiện đang nằm đất, để khi chúng ta ra khỏi đời này, họ đón nhận chúng ta vào nơi an nghỉ đời đời.”[4] [130]
119. Tình yêu và lòng tin tưởng sâu xa nhất của chúng ta cần được liên tục vun đắp, và chúng ta làm điều đó bằng những hành động cụ thể. Nếu chỉ dừng lại trong phạm vi ý tưởng và lý thuyết mà không thể hiện qua các hành động bác ái thực tế và thường xuyên, thì cuối cùng ngay cả những hy vọng và khát vọng thương mến nhất cũng sẽ suy nhược và phai mờ. Chính vì lý do đó, những người Ki-tô hữu chúng ta không được từ bỏ việc bác ái. Việc này có thể được thực hiện theo nhiều cách khác nhau sao cho bảo đảm hiệu quả hơn, nhưng quan trọng là phải tiếp tục. Làm một điều gì đó chí ít cũng luôn tốt hơn là không làm gì cả. Dù dưới hình thức nào, việc bác ái sẽ chạm đến và hoá mềm những con tim chai đá chúng ta. Làm bác ái không giải quyết được vấn đề nghèo đói toàn cầu, nhưng vẫn cần được thực hiện với óc thông minh, sự cần cù và trách nhiệm xã hội. Về phần mình, chúng ta cần trao tặng của bác ái như một cách để vươn tới và chạm đến thân thể đang đau khổ của người nghèo.
120. Đức ái Ki-tô giáo phá bỏ mọi rào cản, đưa những người xa cách lại gần nhau, kết liên những người lạ và hòa giải kẻ thù. Nó bắc ngang những vực sâu mà con người không thể xây cầu, và xuyên thấu vào những ngóc ngách kín ẩn nhất của xã hội. Bản chất của đức ái Ki-tô giáo có tính ngôn sứ : nó tạo nên những phép lạ và không biết giới hạn. Đức ái làm cho điều có vẻ không thể trở thành hiện thực. Trên hết, đức ái là một lối chiêm ngắm cuộc đời và là một cung cách sống. Một Hội Thánh mở ngỏ mọi hạn định cho đức ái, một Hội Thánh thấu hiểu rằng không có kẻ thù nào để chiến đấu mà chỉ có những người nam người nữ để yêu thương, mới chính là Hội Thánh mà thế giới hôm nay đang cần.
121. Qua việc anh chị em làm, những nỗ lực thay đổi các cấu trúc xã hội bất công hay chỉ đơn giản là những cử chỉ chân thành gần gũi và hỗ trợ, người nghèo sẽ nhận ra rằng lời Đức Giê-su nhắn nhủ riêng từng người trong họ thế này : “Ta đã yêu mến ngươi” (Kh 3,9).
Ban hành tại Đền Thánh Phê-rô, Rô-ma,
ngày 4 tháng 10, Lễ Nhớ Thánh Phan-xi-cô Át-xi-di, năm 2025,
năm đầu tiên của triều đại Giáo Hoàng của tôi.
[1] Phan-xi-cô, Thông điệp Dilexit Nos (24 tháng 10 năm 2024), 170 : AAS 116 (2024), 1422.
[2] Ibid., 171 : AAS 116 (2024), 1422-1423.
[3] Phan-xi-cô, Tông huấn Gaudete et Exsultate (19 tháng 3 năm 2018), 96 : AAS 110 (2018), 1137.
[4] Phan-xi-cô, Tiếp kiến các đại diện truyền thông đại chúng (16 tháng 3 năm 2013) : AAS 105 (2013), 381.
[5] J. Bergoglio - A. Skorka, Sobre el cielo y la tierra, Buenos Aires 2013, 214.
[6] Phao-lô VI, Bài giảng trong thánh lễ trước phiên họp chung cuối cùng của công đồng Va-ti-ca-nô II (7 tháng 12 năm 1965) : AAS 58 (1966), 55-56.
[7] X. Phan-xi-cô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11 năm 2013), 187 : AAS 105 (2013), 1098.
[8] Ibid., 212 : AAS 105 (2013), 1108.
[9] Phan-xi-cô, Thông điệp Fratelli Tutti (3 tháng 10 năm 2020), 23 : AAS 112 (2020), 977.
[10] Ibid., 21 : AAS 112 (2020), 976.
[11] Hội đồng Châu Âu, Quyết định (85/8/EEC) về Hành động cộng đồng cụ thể chống nạn nghèo đói (19 tháng 12 năm 1984), Điều 1(2) : Công báo của Cộng đồng Châu Âu, số L 2/24.
[12] X. Gio-an Phao-lô II, Các bài giáo lý (27 tháng 10 năm 1999) : L’Osservatore Romano, 28 tháng 10 năm 1999, 4.
[13] Phan-xi-cô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11 năm 2013), 197 : AAS 105 (2013), 1102.
[14] X. Phan-xi-cô, Sứ điệp cho ngày thế giới người nghèo lần thứ 5 (13 tháng 6 năm 2021), 3 : AAS 113 (2021), 691 : “Đức Giê-su không chỉ đứng về phía người nghèo ; Người còn chia sẻ số phận của họ. Đây là một bài học mạnh mẽ cho các môn đệ của Người qua mọi thời.”
[15] Phan-xi-cô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11 năm 2013), 186 : AAS 105 (2013), 1098.
[16] Phan-xi-cô, Tông huấn Gaudete et Exsultate (19 tháng 3 năm 2018), 95 : AAS 110 (2018), 1137.
[17] Ibid., 97 : AAS 110 (2018), 1137.
[18] Phan-xi-cô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11 năm 2013), 194 : AAS 105 (2013), 1101.
[19] Phan-xi-cô, Tiếp kiến các đại diện truyền thông đại chúng (16 tháng 3 năm 2013) : AAS 105 (2013), 381.
[20] Công đồng Va-ti-ca-np6 II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 8.
[21] Phan-xi-cô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11 năm 2013), 48 : AAS 105 (2013), 1040.
[22] Chương này nêu lên một số nhân chứng. Đây không phải là danh sách đầy đủ nhưng nhằm chứng minh rằng việc quan tâm người nghèo luôn là đặc trưng của sự hiện diện của Hội Thánh trên thế giới. Việc suy gẫm sâu hơn về việc chú tâm đến những người túng thiếu nhất, có thể tham khảo trong cuốn sách : V. Paglia, Storia della povertà, Milan 2014.
[23] X. Am-rô-xi-ô, De officiis ministrorum I, chương 41, 205-206 : CCSL 15, Turnhout 2000, 76-77 ; II, chương 28, 140-143 : CCSL 15, 148-149.
[24] Ibid., II, chương 28, 140 : CCSL 15, 148.
[25] Ibid.
[26] Ibid., II, chương 28, 142 : CCSL 15, 148.
[27] In-nha-xi-ô thành An-ti-ô-khi-a, Epistula ad Smyrnaeos, 6, 2 : SC 10bis, Paris 2007, 136-138.
[28] Pô-li-cáp, Epistula ad Philippenses, 6, 1 : SC 10bis, 186.
[29] Giút-ti-nô, Apologia prima, 67, 6-7 : SC 507, Paris 2006, 310.
[30] Gio-an Kim Khẩu, Homiliae in Matthaeum, 50, 3 : PG 58, Paris 1862, 508.
[31] Ibid. 50, 4 : PG 58, 509.
[32] Gio-an Kim Khẩu, Homilia in Epistula ad Hebraeos, 11, 3 : PG 63, Paris 1862, 94.
[33] Gio-an Kim Khẩu, Homilia II De Lazaro, 6 : PG 48, Paris 1862, 992.
[34] Am-rô-xi-ô, De Nabuthae, 12, 53 : CSEL 32/2, Prague-Vienna-Leipzig 1897, 498.
[35] Âu-tinh, Enarrationes in Psalmos, 125, 12 : CSEL 95/3, Vienna 2001, 181.
[36] Âu-tinh, Sermo LXXXVI, 5 : CCSL 41Ab, Turnhout 2019, 411-412.
[37] Mạo Âu-tinh, Sermo CCCLXXXVIII, 2 : PL 39, Paris 1862, 1700.
[38] Síp-ri-a-nô, De mortalitate, 16 : CCSL 3A, Turnhout 1976, 25.
[39] Phan-xi-cô, Sứ điệp ngày thế giới bệnh nhân lần thứ 30 (10 tháng 12 năm 2021), 3 : AAS 114 (2022), 51.
[40] Ca-mi-lô Len-li, Luật dòng các tá viên bệnh viện, 27 : M. Vanti (chủ biên), Scritti di San Camillo de Lellis, Milan 1965, 67.
[41] Lu-i đệ Ma-ri-ac, Thư gửi các nữ tu Claudia Carré và Maria Gaudoin (28 tháng 11 năm 1657) : E. Charpy (chủ biên), Sainte Louise de Marillac. Écrits, Paris 1983, 576.
[42] Ba-xi-li-ô Cả, Regulae fusius tractatae, 37, 1 : PG 31, Paris 1857, 1009 C-D.
[43] Tu luật Thánh Biển Đức, 53, 15 : SC 182, Paris 1972, 614.
[44] Gio-an Cát-xi-a-nô, Collationes, XIV, 10 : CSEL 13, Vienna 2004, 410.
[45] Biển Đức XVI, Các bài giáo lý (21 tháng 10 năm 2009) : L’Osservatore Romano, 22 tháng 10 năm 2009, 1.
[46] X. In-nô-xen-tê III, Sắc lệnh Operante divinae dispositionis – Tu luật ban đầu của Dòng Chúa Ba Ngôi (17 tháng 12 năm 1198), 2 : J.L. Aurrecoechea – A. Moldón (chủ biên), Fuentes históricas de la Orden Trinitaria (thế kỷ XII-XV), Córdoba 2003, 6 : “Tất cả mọi thứ, dù chúng có thể đến từ nguồn hợp pháp nào, các anh em phải chia thành ba phần bằng nhau. Sao cho có hai phần dùng đủ cho các việc bác ái được trích từ đó mà thực hiện, cũng như cung cấp lương thực vừa phải cho bản thân anh em và những thành viên thiết yếu trong nhà. Phần thứ ba dành để chuộc những tù nhân bị giam giữ vì đức tin vào Đức Ki-tô.”
[47] X. Hiến pháp Dòng Me-chê-đa-ri-a-nô, số 14 : Orden de la Bienaventurada Virgen María de la Merced, Regla y Constituciones, Rome 2014, 53 : “Để hoàn thành sứ vụ được thúc đẩy bởi lòng bác ái, chúng tôi thánh hiến cho Thiên Chúa qua lời khấn đặc biệt được gọi là Lời Khấn Cứu Chuộc, vì qua đó mà chúng tôi hứa tao mạng sống nếu cần thiết, như Đức Ki-tô đã hy sinh để cứu các Ki-tô hữu đang trong cơn nguy khốn mất đức tin của mình dưới các hình thức nô lệ mới.”
[48] X. Thánh Gio-an Tẩy Giả Conception, Orden de la Santísima Trinidad, XX, 1 : BAC Maior 60, Madrid, 1999, 90 : “Trong đó, người nghèo và tù nhân giống như Đức Ki-tô, người mang lấy mọi đau khổ của thế giới... Dòng Chúa Ba Ngôi Cực Thánh kêu gọi và mời họ đến uống nước của Đấng Cứu Thế, nghĩa là nếu Đức Ki-tô bị treo trên thập giá là ơn cứu chuộc và cứu độ cho nhân loại, thì Dòng này đã nhận lấy sự cứu chuộc đó và muốn phân phát cho người nghèo, cứu chuộc và giải thoát tù nhân.”
[49] X. Thánh Gioan Tẩy Giả Conception, El recogimiento interior, XL, 4 : BAC Maior 48, Madrid 1995, 689 : “Ý chí tự do làm cho con người tự do và làm chủ trong mọi loài thụ tạo, nhưng xin Thiên Chúa giúp con, vì có biết bao người dùng ý chí này mà trở thành nô lệ và tù nhân của ma quỷ, bị giam cầm và xích bởi các đam mê và dục vọng.”
[50] Phan-xi-cô, Sứ điệp ngày thế giới hòa bình lần thứ 48 (8 tháng 12 năm 2014), 3 : AAS 107 (2015), 69.
[51] Phan-xi-cô, Gặp gỡ các giám thị trại giam, tù nhân và tình nguyện viên (Verona, 18 tháng 5 năm 2024) : AAS 116 (2024), 766.
[52] Hô-nô-ri-ô III, Sắc lệnh Solet annuere – Regula bullata (29 tháng 11 năm 1223), chương VI : SC 285, Paris 1981, 192.
[53] X. Ghê-gô-ri-ô IX, Sắc lệnh Sicut manifestum est (17 tháng 9 năm 1228), 7 : SC 325, Paris 1985, 200 : “Sicut igitur supplicastis, altissimae paupertatis propositum vestrum favore apostolico roboramus, auctoritate vobis praesentium indulgentes, ut recipere possessiones a nullo compelli possitis.”
[54] X. S.C. Tugwell, (chủ biên), Early Dominicans. Selected Writings, Mahwah 1982, 16-19.
[55] Tô-ma Xê-la-nô, Vita Seconda, pars prima, cap. IV, 8 : AnalFranc, 10, Florence 1941, 135.
[56] Phan-xi-cô, Diễn văn dịp viếng mộ Don Lorenzo Milani, (Barbiana, 20 tháng 6 năm 2017), 2 : AAS 109 (2017), 745.
[57] Gio-an Phao-lô II, Diễn văn gửi các tham dự viên tại tổng hội của Hội Giáo Sĩ Hèn Mọn Mẹ Thiên Chúa Các Trường Đạo (Piarists) (5 tháng 7 năm 1997), 2 : L’Osservatore Romano, 6 tháng 7 năm 997, 5.
[58] Ibid.
[59] Gio-an Phao-lô II, Bài giảng lễ tuyên thánh (18 tháng 4 năm 1999) : AAS 91 (1999), 930.
[60] X. Gio-an Phao-lô II, Thư Iuvenum Patris (31 tháng 1 năm 1988), 9 : AAS 80 (1988), 976.
[61] X. Phan-xi-cô, Diễn văn gửi các tham dự viên tại tổng hội của Tu Hội Bác Ái (Rosminians) (1 tháng 10 năm 2018) : L’Osservatore Romano, 1-2 tháng 10 năm 2018, 7.
[62] Phan-xi-cô, Bài giảng lễ tuyên thánh (9 tháng 10 năm 2022) : AAS 114 (2022), 1338.
[63] Gio-an Phao-lô II, Sứ điệp gửi Hội Dòng Nữ Tu Truyền Giáo Thánh Tâm (31 tháng 5 năm 2000), 3 : L’Osservatore Romano, 16 tháng 7 năm 2000, 5.
[64] X. Pi-ô XII, Thư Superior Iam Aetate (8 tháng 9 năm 1950) : AAS 43 (1951), 455-456.
[65] Phan-xi-cô, Sứ điệp ngày thế giới di dân và tị nạn lần thứ 105 (27 tháng 5 năm 2019) : AAS 111 (2019), 911.
[66] Phan-xi-cô, Sứ điệp ngày thế giới di dân và tị nạn lần thứ 100 (5 tháng 8 năm 2013) : AAS 105 (2013), 930.
[67] Tê-rê-sa Can-cút-ta, Bài phát biểu nhân dịp trao giải Nô-ben Hòa bình (Oslo, 10 tháng 12 năm 1979) : Aimer jusqu’à en avoir mal, Lyon 2017, 19-20.
[68] Gio-an Phao-lô II, Diễn văn gửi các khách hành hương đến Rô-ma nhân dịp tuyên phong chân phước cho Mẹ Tê-rê-sa (20 tháng 10 năm 2003), 3 : L’Osservatore Romano, 20-21 tháng 10 năm 2003, 10.
[69] Phan-xi-cô, Bài giảng lễ tuyên thánh (13 tháng 10 năm 2019) : AAS 111 (2019), 1712.
[70] Gio-an Phao-lô II, Tông thư Novo Millennio Ineunte (6 tháng 1 năm 2001), 49 : AAS 93 (2001), 302.
[71] Phan-xi-cô, Tông huấn Christus Vivit (25 tháng 3 năm 2019), 231 : AAS 111 (2019), 458.
[72] Phan-xi-cô, Diễn văn gửi các tham dự viên dịp họp mặt thế giới các phong trào giáo dân (28 tháng 10 năm 2014) : AAS 106 (2014), 851-852.
[73] Ibid. : AAS 106 (2014), 859.
[74] Phan-xi-cô, Diễn văn gửi các tham dự viên dịp họp mặt thế giới các phong trào giáo dân (5 tháng 11 năm 2016) : L’Osservatore Romano, 7-8 tháng 11 năm 2016, 5.
[75] Ibid.
[76] Gio-an XXIII, Thông điệp phát trên sóng Ra-đi-ô gửi toàn thể tín hữu Ki-tô trước một tháng ngày khai mạc Công đồng Va-ti-ca-nô II (11 tháng 9 năm 1962) : AAS 54 (1962), 682.
[77] G. Le-ca-rô, Phát biểu tại Phiên Họp Toàn Thể XXXV của Công đồng Va-ti-ca-nô II (6 tháng 12 năm 1962), 2 : AS I/IV, 327-328.
[78] Ibid., 4 : AS I/IV, 329.
[79] Viện Khoa học Tôn giáo (chủ biên), Per la forza dello Spirito. Discorsi conciliari del Card. Giacomo Lercaro, Bologna 1984, 115.
[80] Phao-lô VI, Diễn văn lễ khai mạc trọng thể khoá họp thứ hai của Công đồng Va-ti-ca-nô II (29 tháng 9 năm 1963) : AAS 55 (1963), 857.
[81] Phao-lô VI, Bài Giáo lý (11 tháng 11 năm 1964) : Insegnamenti di Paolo VI, II (1964), 984.
[82] Công đồng Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 69, 71.
[83] Phao-lô VI, Thông điệp Populorum Progressio (26 tháng 3 năm 1967), 23 : AAS 59 (1967), 269.
[84] X. Ibid., 4 : AAS 59 (1967), 259.
[85] Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis (30 tháng 12 năm 1987), 42 : AAS 80 (1988), 572.
[86] Ibid., AAS 80 (1988), 573.
[87] Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Laborem Exercens (14 tháng 9 năm 1981), 3 : AAS 73 (1981), 584.
[88] Biển Đức XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29 tháng 6 năm 2009), 7 : AAS 101 (2009), 645.
[89] Ibid., 27 : AAS 101 (2009), 661.
[90] Hội nghị Giám mục Mỹ Châu La-tinh lần thứ hai, Tài liệu Mê-đê-lin (24 tháng 10 năm 1968), 14, mục 7 : Celam, Medellín. Conclusiones, Lima 2005, 131-132.
[91] Phan-xi-cô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11 năm 2013), 202 : AAS 105 (2013), 1105.
[92] Ibid., 205 : AAS 105 (2013), 1106.
[93] Ibid., 190 : AAS 105 (2013), 1099.
[94] Ibid., 56 : AAS 105 (2013), 1043.
[95] Phan-xi-cô, Thông điệp Dilexit Nos (24 tháng 10 năm 2024), 183 : AAS 116 (2024), 1427.
[96] Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus Annus (1 tháng 5 năm 1991), 41 : AAS 83 (1991), 844-845.
[97] Phan-xi-cô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11 năm 2013), 202 : AAS 105 (2013), 1105.
[98] Ibid.
[99] Phan-xi-cô, Thông điệp Fratelli Tutti (3 tháng 10 năm 2020), 22 : AAS 112 (2020), 976.
[100] Phan-xi-cô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11 năm 2013), 209 : AAS 105 (2013), 1107.
[101] Phan-xi-cô, Thông điệp Laudato Si’ (24 tháng 5 năm 2015), 50 : AAS 107 (2015), 866.
[102] Phan-xi-cô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11 năm 2013), 210 : AAS 105 (2013), 1107.
[103] Phan-xi-cô, Thông điệp Laudato Si’ (24 tháng 5 năm 2015), 43 : AAS 107 (2015), 863.
[104] Ibid., 48 : AAS 107 (2015), 865.
[105] Phan-xi-cô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11 năm 2013), 180 : AAS 105 (2013), 1095.
[106] Bộ Giáo lý Đức tin, Tài liệu hướng dẫn về một số khía cạnh của “Thần Học Giải phóng” (6 tháng 8 năm 1984) XI, 18 : AAS 76 (1984), 907-908.
[107] Hội nghị Giám mục Mỹ Châu La-tinh và Ca-ri-bê lần thứ năm, Tài liệu A-pa-rê-thi-đa (29 tháng 6 năm 2007), mục 392, Bogotá 2007, tr. 179-180. Xem thêm Biển Đức XVI, Diễn văn khai mạc Hội nghị lần thứ năm của Giám mục Mỹ Châu La-tinh và Ca-ri-bê (13 tháng 5 năm 2007), 3 : AAS 99 (2007), 450.
[108] X. Hội nghị Giám mục Mỹ Châu La-tinh và Ca-ri-bê lần thứ năm, Tài liệu A-pa-rê-thi-đa (29 tháng 6 năm 2007), các số 43-87, tr. 31-47.[109] Hội nghị Giám mục Mỹ La-tinh và Caribe lần thứ năm, Thông điệp cuối cùng (29 tháng 5 năm 2007), số 4, Bogotá 2007, tr. 275.
[110] Hội nghị Giám mục Mỹ Châu La-tinh và Ca-ri-bê lần thứ năm, Tài liệu A-pa-rê-thi-đa (29 tháng 6 năm 2007), số 398, tr. 182.
[111] Phan-xi-cô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11 năm 2013), 199 : AAS 105 (2013), 1103-1104.
[112] Ibid., 198 : AAS 105 (2013), 1103.
[113] Ibid.
[114] Hội nghị Giám mục Mỹ Châu La-tinh và Ca-ri-bê lần thứ năm, Tài liệu A-pa-rê-thi-đa (29 tháng 6 năm 2007), mục 397, tr. 182.
[115] Phan-xi-cô, Thông điệp Fratelli Tutti (3 tháng 10 năm 2020), 64 : AAS 112 (2020), 992.
[116] Phan-xi-cô, Tông huấn Gaudete et Exsultate (19 tháng 3 năm 2018), 98 : AAS 110 (2018), 1137.
[117] Phan-xi-cô, Thông điệp Fratelli Tutti (3 tháng 10 năm 2020), 65-66 : AAS 112 (2020), 992.
[118] Ghê-gô-ri-ô Cả, Bài giảng 40, đoạn 10 : SC 522, Paris 2008, 552-554.
[119] Ibid., đoạn 6 : SC 522, 546.
[120] Ibid, đoạn 3 : SC 522, 536.
[121] Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus Annus (1 tháng 5 năm 1991), 57 : AAS 83 (1991), 862-863.
[122] Phan-xi-cô, Canh thức Lễ Ngũ Tuần với các Phong trào của Giáo hội (18 tháng 5 năm 2013) : L’Osservatore Romano, 20-21 tháng 5 năm 2013, 5.
[123] Phan-xi-cô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11 năm 2013), 186 : AAS 105 (2013), 1098.
[124] Ibid., 188 : AAS 105 (2013), 1099.
[125] X. Ibid., 182-183 : AAS 105 (2013), 1096-1097.
[126] Ibid., 207 : AAS 105 (2013), 1107.
[127] Ibid., 200 : AAS 105 (2013), 1104.
[128] Phan-xi-cô, Diễn văn tại cuộc gặp gỡ với đại diện giới lao động tại nhà máy In-va ở Gê-nô-a (27 tháng 5 năm 2017) : AAS 109 (2017), 613.
[129] Mạo Gio-an Kim Khẩu, Homilia de Jejunio et Eleemosyna : PG 48, 1060.
[130] Ghê-gô-ri-ô Na-di-en, Oratio XIV, đoạn 40 : PG 35, Paris 1886, 910.
Ghi chú của dịch giả
[1] Bản dịch của Nhóm PD CGKPV từ Các Bài Đọc Giờ Kinh Sách, Quyển 2, ctr. 500-501 (Hà Nội, 2023).
[2] Ibid.
[3] Bản dịch của GHHV Pi-ô X.
[4] Bản dịch của Nhóm PD CGKPV từ Các Bài Đọc Giờ Kinh Sách, Quyển 1, ctr. 617-618 (Hà Nội, 2023).