TÔNG HUẤN
GAUDETE IN DOMINO
(Hãy vui lên trong Chúa)
CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHAOLÔ VI
VỀ NIỀM VUI KITÔ GIÁO
- Kỳ II -
II. NIỀM VUI KITÔ GIÁO ĐƯỢC LOAN BÁO TRONG CỰU ƯỚC
16. Xét theo bản chất, niềm vui Kitô giáo là sự hiệp thông thiêng liêng vào niềm vui khôn dò khôn thấu, vừa thần linh vừa nhân loại, vốn tuôn chảy trong trái tim Đức Giêsu Kitô vinh hiển. Ngay từ khi Chúa Cha bắt đầu tỏ lộ trong lịch sử mầu nhiệm tình thương mà Người đã hoạch định từ muôn thuở trong Đức Kitô, để thực hiện vào thời viên mãn (12) – thì niềm vui ấy đã được loan báo cách mầu nhiệm giữa lòng Dân Thiên Chúa, dù chưa được bày tỏ trọn vẹn bản chất.
17. Quả vậy, ông Abraham, tổ phụ chúng ta, người đã được Thiên Chúa tuyển chọn để chuẩn bị cho việc hoàn tất Lời Hứa, và là người “vẫn giữ niềm hy vọng bất chấp mọi hy vọng” , đã nhận được – nơi biến cố sinh hạ người con là Isaac – những hoa trái tiên tri đầu tiên của niềm vui ấy. (13) Niềm vui ấy được chuyển biến qua một thử thách chạm đến cõi chết, khi đứa con duy nhất ấy được hoàn lại cho ông như người sống, tiên báo trước mầu nhiệm phục sinh của Đấng sẽ đến – người Con Một của Thiên Chúa – được hứa ban cho hy lễ cứu độ sau cùng. Chính ông Abraham đã vui mừng khi nghĩ tới Ngày của Đức Kitô, Ngày cứu độ, và “ông đã thấy và hoan hỷ”. (14)
18. Tiếp đó, niềm vui cứu độ lớn lên và lan tỏa suốt chiều dài lịch sử tiên tri của dân Israel xưa. Nó kiên vững tồn tại, và không ngừng được tái sinh, ngay giữa những thử thách bi thương do sự bất trung của dân được tuyển chọn, cũng như do những cuộc bách hại từ bên ngoài nhằm lôi kéo họ xa lìa Thiên Chúa. Niềm vui này – luôn bị đe dọa nhưng không ngừng trỗi dậy – là nét đặc trưng riêng có của dòng dõi Abraham.
Đó luôn là một kinh nghiệm đầy phấn khởi, gắn liền với ơn giải thoát và phục hồi, dù chỉ mới ở dạng tiên báo, nhưng có nguồn gốc từ tình yêu xót thương của Thiên Chúa dành cho dân riêng yêu dấu của Người. Vì họ, Người thực hiện các lời hứa trong Giao Ước, hoàn toàn do ân sủng và quyền năng kỳ diệu của Người. Đó chính là niềm vui của lễ Vượt Qua thời Môsê – một biến cố mang tính tiên trưng cho cuộc giải thoát cánh chung sẽ được Đức Giêsu Kitô thực hiện trong bối cảnh Vượt Qua của Giao Ước mới và vĩnh cửu. Cũng chính là niềm vui chân thực được cất lên trong các Thánh Vịnh, nhiều lần ca tụng niềm hạnh phúc khi sống với Thiên Chúa và cho Thiên Chúa. Và trên hết, đó là niềm vui huy hoàng và siêu nhiên, được tiên báo dành cho Giêrusalem mới – được cứu chuộc khỏi lưu đày, và được chính Thiên Chúa yêu thương với một tình yêu nhiệm mầu.
20. Ý nghĩa sâu xa nhất của dòng thác tình yêu cứu độ chưa từng có ấy chỉ được bày tỏ trọn vẹn trong thời điểm Vượt Qua mới và Cuộc Xuất Hành mới. Khi ấy, Dân Thiên Chúa sẽ được dẫn qua cái chết và phục sinh của Người Tôi Trung đau khổ, từ thế gian này về với Chúa Cha, từ Giêrusalem trần thế đến Giêrusalem thiên quốc:
“Ngươi đã từng bị bỏ rơi và chán ghét, chẳng ai lui tới,
nhưng Ta sẽ làm cho ngươi trở nên huy hoàng đến muôn đời,
một niềm vui từ đời nọ sang đời kia...
Như người thanh niên cưới một trinh nữ,
con cái ngươi sẽ cưới lấy ngươi;
và như chàng rể hân hoan vì cô dâu,
Thiên Chúa ngươi sẽ vui mừng vì ngươi.” (15)
III. NIỀM VUI THEO TÂN ƯỚC
21. Qua dòng thời gian suốt nhiều thế kỷ và giữa muôn vàn thử thách đau thương, những lời hứa ấy đã kỳ diệu nâng đỡ niềm hy vọng thiêng liêng của dân Israel xưa. Và chính dân Israel xưa đã chuyển giao những lời hứa ấy cho Hội Thánh của Đức Giêsu Kitô, đến mức chúng ta mang ơn họ về những biểu hiện tinh tuyền nhất trong thánh thi hoan lạc của chúng ta. Tuy nhiên, theo đức tin và kinh nghiệm Kitô giáo dưới tác động của Chúa Thánh Thần, bình an do Thiên Chúa ban và tuôn trào như suối nguồn dạt dào khi thời kỳ “an ủi” đến (16), gắn liền với việc Đức Kitô đến và hiện diện.
22. Không ai bị loại trừ khỏi niềm vui mà Chúa mang đến. Niềm vui lớn lao được sứ thần loan báo trong đêm Giáng Sinh thật sự là “niềm vui cho toàn dân” (17): cho dân Israel lúc bấy giờ đang khắc khoải mong chờ một Đấng Cứu Thế, và cho vô số con người trong tương lai, những người sẽ đón nhận sứ điệp ấy và nỗ lực sống theo sứ điệp ấy. Đức Trinh Nữ Maria là người đầu tiên lãnh nhận lời loan báo ấy từ thiên sứ Gabriel, và bài Magnificat của Mẹ đã trở thành khúc hoan ca trào dâng của mọi tâm hồn khiêm hạ. Mỗi khi chúng ta lần hạt Mân Côi, các mầu nhiệm mùa Vui lại đưa chúng ta trở về với biến cố không thể diễn tả – là trung tâm và đỉnh cao của lịch sử: biến cố Thiên Chúa nhập thể làm người. Ông Gioan Tẩy Giả, người được sai đến để giới thiệu Đấng ấy cho dân Israel, đã nhảy mừng trong lòng mẹ khi được ở trong sự hiện diện của Người (18). Khi Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai, ông Gioan đã “vui mừng khôn xiết vì nghe tiếng chàng rể” (19).
23. Giờ đây chúng ta hãy dừng lại để chiêm ngắm con người của Đức Giêsu trong đời sống trần thế của Người. Trong nhân tính, Người đã cảm nghiệm các niềm vui của chúng ta. Người rõ ràng đã biết đến, trân trọng và tán dương đủ loại niềm vui nhân loại, những niềm vui đơn sơ hằng ngày mà ai ai cũng có thể nếm trải. Đời sống nội tâm sâu thẳm không hề làm giảm nơi Người sự nhạy cảm hay thái độ cụ thể. Người thán phục chim trời và hoa huệ ngoài đồng. Người thấu hiểu ngay lập tức thái độ của Thiên Chúa đối với tạo thành từ buổi đầu lịch sử. Người tán dương niềm vui của người gieo kẻ gặt, niềm vui của người tìm thấy kho báu giấu kín, niềm vui của mục tử tìm được chiên lạc, hay người đàn bà tìm lại đồng bạc bị mất, niềm vui của khách dự tiệc, niềm vui trong lễ cưới, niềm vui của người cha ôm lấy đứa con hoàn lương, và niềm vui của người phụ nữ vừa sinh con. Đối với Đức Giêsu, những niềm vui ấy là chân chính, vì Người nhận ra nơi đó dấu chỉ của các niềm vui thiêng liêng trong Nước Thiên Chúa: niềm vui của những ai bước vào Nước ấy, trở về với Nước ấy, hay đang phục vụ trong Nước ấy; niềm vui của Chúa Cha đang đón nhận họ. Về phần mình, Đức Giêsu cũng biểu lộ sự hài lòng và trìu mến khi gặp các trẻ nhỏ muốn đến gần Người, người thanh niên giàu có sống trung tín và muốn vươn tới trọn lành, các bằng hữu mở cửa nhà đón tiếp Người như Mácta, Maria và Ladarô.
Hạnh phúc lớn nhất của Người là thấy Lời được đón nhận, người bị quỷ ám được giải thoát, một phụ nữ tội lỗi hay một người thu thuế như Dakêu hoán cải, một người góa phụ quảng đại trong cảnh túng nghèo. Người thậm chí còn nhảy mừng trong Thánh Linh khi tuyên bố rằng các mầu nhiệm Nước Trời đã được mặc khải cho những kẻ bé mọn mà lại bị ẩn giấu với những kẻ khôn ngoan thông thái (20). Quả vậy, bởi vì Đức Kitô “đã nên giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi” (21), nên Người đã đón nhận và cảm nghiệm những niềm vui tình cảm và thiêng liêng như là ân huệ đến từ Thiên Chúa. Người không ngơi nghỉ cho đến khi “loan báo Tin Mừng cứu độ cho kẻ nghèo khó… và ban niềm vui cho những tâm hồn sầu khổ” (22). Tin Mừng theo thánh Luca đặc biệt làm chứng cho hạt giống của niềm vui này. Các phép lạ của Đức Giêsu và những lời tha thứ của Người là biết bao dấu chỉ của lòng nhân hậu Thiên Chúa: “toàn dân vui mừng về mọi việc vinh hiển Người đã làm và tôn vinh Thiên Chúa” (23). Đối với Kitô hữu cũng như đối với Đức Giêsu, đó là vấn đề sống những niềm vui nhân bản với tâm tình cảm tạ Chúa Cha, Đấng Tạo Hóa đã ban tặng.
24. Tuy nhiên, chúng tôi muốn nêu bật bí nhiệm của niềm vui khôn dò khôn thấu mà Đức Giêsu mang trong mình và là điều độc đáo của Người. Đặc biệt, chính Tin Mừng theo Thánh Gioan đã vén mở điều ấy, bằng cách ghi lại những lời thân mật của Con Thiên Chúa làm người. Nếu Đức Giêsu chiếu tỏa một sự bình an, một sự chắc chắn, một niềm hạnh phúc, một sự cởi mở như thế, thì đó là bởi vì Người biết mình được Chúa Cha yêu thương bằng một tình yêu khôn tả. Khi Người được Gioan làm phép rửa bên bờ sông Giođan, tình yêu ấy – vốn đã hiện diện ngay từ giây phút Nhập Thể – được tỏ hiện: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (24). Sự xác tín này gắn liền mật thiết với ý thức của Đức Giêsu. Đó là một sự hiện diện không bao giờ lìa xa Người (25). Đó là một sự trao đổi liên tục và tràn đầy nơi Người: “Chúa Cha biết Con, và Con biết Chúa Cha” (26). Đó là một sự trao hiến liên lỉ và trọn vẹn: “Tất cả những gì của Con đều là của Cha, và tất cả những gì của Cha đều là của Con” (27). Chúa Cha đã trao cho Con quyền xét xử, quyền ban sự sống. Đó là một mối tương tại thẳm sâu: “Con ở trong Cha, và Cha ở trong Con” (28). Và Con lại yêu mến Cha vô cùng: “Con yêu mến Cha… và Con làm đúng như những gì Cha đã truyền cho Con” (29). Người luôn thực thi điều đẹp lòng Cha: đó là lương thực của Người (30). Sự sẵn sàng của Người đi đến chỗ dâng hiến cả mạng sống nhân loại của mình; lòng tin tưởng của Người đi đến niềm xác tín rằng mình sẽ lấy lại sự sống ấy: “Cha yêu mến Con vì Con tự nguyện thí mạng sống mình để rồi lấy lại” (31). Theo nghĩa đó, Người vui mừng vì được trở về với Chúa Cha. Đối với Đức Giêsu, đây không phải là một thoáng nhận thức, nhưng là sự vang vọng trong ý thức nhân loại của Người về tình yêu mà Người hằng sống từ thuở đời đời trong cung lòng Chúa Cha: “Lạy Cha, Cha đã yêu Con trước khi thế gian được tạo thành” (32). Nơi đây là một mối tương quan tình yêu khôn tả, chính là căn tính của Người với tư cách là Con, và cũng là bí nhiệm của đời sống Ba Ngôi: Chúa Cha được nhìn thấy là Đấng tự hiến trọn vẹn, không ngơi nghỉ và đầy quảng đại hân hoan cho Chúa Con; và Chúa Con được nhìn thấy là Đấng tự hiến lại cách trọn vẹn cho Chúa Cha, trong một niềm tri ân vui tươi, trong Chúa Thánh Thần.
25. Các môn đệ cũng như tất cả những ai tin vào Đức Kitô đều được kêu gọi chia sẻ niềm vui này. Đức Giêsu muốn họ được hưởng nơi chính mình niềm vui của Người một cách trọn vẹn (33). “Con đã tỏ Danh Cha cho họ, và sẽ còn tiếp tục tỏ ra, để tình yêu Cha dành cho Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ” (34).
26. Niềm vui được sống trong tình yêu của Thiên Chúa bắt đầu ngay từ đời này. Đó là niềm vui của Nước Thiên Chúa. Nhưng niềm vui ấy được ban tặng trên một con đường dốc đứng, đòi hỏi sự phó thác trọn vẹn vào Chúa Cha và Chúa Con, và sự chọn lựa ưu tiên dành cho Nước Thiên Chúa. Sứ điệp của Đức Giêsu, trước hết, là lời hứa ban niềm vui — một niềm vui đòi hỏi; và chẳng phải lời rao giảng của Người bắt đầu bằng các mối phúc sao? “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó: vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những kẻ hiện nay đang đói: vì anh em sẽ được no đầy. Phúc cho anh em là những kẻ hiện nay đang khóc: vì anh em sẽ được vui cười.” (35)
27. Một cách mầu nhiệm, chính Đức Kitô đã đón nhận cái chết từ tay kẻ dữ (36) và cái chết thập giá, để nhổ bỏ khỏi lòng con người tội tự mãn, và biểu lộ trước mặt Chúa Cha lòng vâng phục làm con cách trọn vẹn. Nhưng Chúa Cha đã không để sự chết khống chế Người. Sự phục sinh của Đức Giêsu là ấn tín mà Chúa Cha đặt trên giá trị hy tế của Người Con: đó là bằng chứng về sự trung tín của Chúa Cha, đúng như lòng ước mong của Đức Giêsu trước cuộc khổ nạn: “Lạy Cha… xin tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha.” (37) Từ nay, Đức Giêsu hằng sống trong vinh quang của Chúa Cha, và chính vì thế các môn đệ đã được củng cố trong một niềm vui không gì xóa nhòa được, khi họ thấy Chúa vào chiều ngày Phục Sinh.
28. Thế nhưng, tại thế này, niềm vui của Nước Thiên Chúa – niềm vui đã được thực hiện – chỉ có thể tuôn trào từ việc cử hành đồng thời cái chết và sự phục sinh của Chúa. Đó là nghịch lý trong thân phận Kitô hữu, đồng thời là ánh sáng đặc biệt soi chiếu thân phận con người: thử thách và đau khổ không bị loại bỏ khỏi trần gian, nhưng chúng mang một ý nghĩa mới trong sự chắc chắn rằng người Kitô hữu được thông phần vào công trình cứu độ của Chúa và được dự phần vào vinh quang của Người. Đó là lý do tại sao người Kitô hữu, dẫu chịu đựng những gian truân trong cuộc sống, nhưng không sống trong sự mù mờ không định hướng; và người ấy cũng không coi cái chết như là chấm dứt mọi hy vọng của mình. Quả thật, như ngôn sứ đã loan báo: “Đoàn dân đang lần bước giữa tối tăm, đã thấy ánh sáng huy hoàng; ánh sáng bừng lên chiếu soi những ai sống trong vùng bóng tối tử thần. Chúa đã ban cho họ niềm hoan hỷ chan hòa, đã tăng thêm nỗi vui mừng…” (38) Bài ca Exsultet đêm Vọng Phục Sinh ca ngợi một mầu nhiệm vượt quá mọi niềm hy vọng của các ngôn sứ: trong lời loan báo vui mừng về sự phục sinh, cả đau khổ của con người cũng được biến đổi, và niềm vui tròn đầy tuôn trào từ chiến thắng của Đấng bị đóng đinh, từ trái tim bị đâm thâu và thân thể vinh hiển của Người. Chiến thắng ấy chiếu soi những tâm hồn còn u tối. Et nox illuminatio mea in deliciis meis. (39)
29. Niềm vui Phục Sinh không chỉ là một sự biến đổi khả thể: đó là niềm vui vì sự hiện diện mới của Đức Kitô phục sinh, Đấng ban Thánh Linh cho những người thuộc về Người, để Người ở lại với họ. Thánh Linh được ban cho Hội Thánh như là nguyên ủy không bao giờ cạn của niềm vui, với tư cách là Hiền Thê của Đức Kitô vinh hiển. Qua thừa tác vụ ân sủng và chân lý của các đấng kế vị các Tông đồ, Thánh Linh gợi lại nơi Hội Thánh giáo huấn của Chúa Kitô. Chính Thánh Linh làm trỗi dậy trong Hội Thánh sự sống thần linh và công cuộc tông đồ. Và người Kitô hữu biết rằng Thánh Thần ấy sẽ không bao giờ bị dập tắt trong dòng lịch sử. Nguồn mạch hy vọng được mạc khải trong ngày Lễ Ngũ Tuần sẽ không bao giờ cạn kiệt.
30. Vì thế, Thánh Linh, Đấng phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con, và là tình yêu sống động giữa hai Đấng, từ nay được thông ban cho Dân Giao Ước Mới và cho từng linh hồn sẵn sàng để Người hoạt động cách nhiệm mầu. Người làm cho chúng ta trở nên nơi cư ngụ của Người: dulcis hospes animae (40). Cùng với Người, trong lòng con người, Chúa Cha và Chúa Con cũng cư ngụ (41). Chính Thánh Linh làm trỗi dậy trong tâm hồn lời cầu nguyện thảo hiếu, vọt lên từ sâu thẳm linh hồn và biểu lộ bằng lời ngợi khen, tạ ơn, đền tạ và khẩn nài. Nhờ đó, chúng ta được cảm nghiệm niềm vui đích thực mang chiều kích thiêng liêng, niềm vui là hoa trái của Thánh Linh (42): niềm vui hệ tại linh hồn tìm được sự an nghỉ và thỏa mãn sâu xa khi chiếm hữu Ba Ngôi Thiên Chúa – Đấng được nhận biết nhờ đức tin và được yêu mến bằng tình yêu xuất phát từ chính Người. Niềm vui ấy, từ nay, in dấu trên mọi nhân đức Kitô giáo. Những niềm vui nhân loại đơn sơ trong đời sống chúng ta – vốn như những hạt giống của thực tại cao vời hơn – được biến đổi. Nơi dương thế này, niềm vui ấy vẫn luôn đi kèm, trong một mức độ nào đó, với cơn quặn đau của người phụ nữ khi sinh con, và một cảm thức bị bỏ rơi như trẻ mồ côi: nước mắt và than khóc, trong khi thế gian hả hê. Nhưng nỗi buồn của các môn đệ – là nỗi buồn “phù hợp với Thiên Chúa” chứ không theo thế gian – sẽ sớm được chuyển thành niềm vui thiêng liêng mà không ai có thể lấy đi được (43).
31. Đó chính là hoàn cảnh của đời sống Kitô hữu, và cách riêng là của đời sống tông đồ. Đời sống ấy, được hun đúc bởi lòng mến Chúa và yêu thương anh em, đương nhiên phải được thực hiện dưới dấu chỉ hy lễ Vượt Qua: qua yêu thương đến hiến mình, qua cái chết đến sự sống và tình yêu. Đó là căn tính của người Kitô hữu, và nhất là, của người tông đồ – người phải trở nên “mẫu mực cho đoàn chiên” (44) và tự nguyện liên kết với cuộc khổ nạn của Đấng Cứu Chuộc. Đời sống tông đồ như thế hoàn toàn tương ứng với điều được mô tả trong Tin Mừng như là quy luật của mối phúc Kitô giáo, tiếp nối số phận của các ngôn sứ: “Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ cũng đã bị người ta bách hại như thế.” (45)
32. Thật đáng buồn, trong thời đại hôm nay – một thời đại bị đe dọa bởi ảo tưởng của hạnh phúc giả tạo – chúng ta không thiếu những dịp để nhận thấy sự bất lực “tự nhiên” của con người trong việc đón nhận “những điều thuộc về Thần khí của Thiên Chúa” : đối với họ đó là điều điên rồ, họ không thể hiểu được, bởi những điều ấy chỉ có thể được nhận định theo thần khí” (46). Thế gian – bởi vì không thể đón nhận Thần Khí của sự thật, Đấng mà thế gian không thấy và cũng không biết – chỉ nhìn thấy một mặt của thực tại. Nó chỉ thấy đau khổ và nghèo túng của người môn đệ, trong khi người môn đệ ấy, tận sâu thẳm nội tâm, vẫn sống trong niềm vui, bởi họ đang hiệp thông với Chúa Cha và với Con của Người là Đức Giêsu Kitô.
**************
12. X. Ep 1,9-10.
13. X. St 21,1-7; Rm 4,18.
14. Ga 8,56.
15. Is 60,15; 62,3; Gl 4,27; Kh 21,1-4.
16. X. Is 40,1; 66,13.
17. X. Lc 2,10.
18. X. Lc 1,44.
19. Ga 3,29.
20. X. Lc 10,21.
21. Kinh Tạ Ơn IV; x. Dt 4,15.
22. Như trên; Lc 4,18.
23. X. Lc 13,17.
24. Lc 3,22.
25. X. Ga 16,32.
26. Ga 10,15.
27. Ga 17,10.
28. Ga 14,10.
29. Ga 14,31.
30. X. Ga 8,29; 4,34.
31. Ga 10,17.
32. Ga 17,24.
33. X. Ga 17,13.
34. Ga 17,26.
35. Lc 6,20-21.
36. X. Cv 2,23.
37. Ga 17,1.
38. Is 9,1-2.
39. “ Đêm rạng ngời làm vui thỏa lòng con” (Bài ca Exsultet, lễ Vọng Phục Sinh).
40. “ Khách trọ hiền dịu của linh hồn” . Trích Ca-tiếp-liên lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.
41. X. Ga 14,23.
42. X. Rm 14,17; Gl 5,22.
43. X. Ga 16,20-22; 2 Cr 1,4; 7,46.
44. 1 Pr 5,3.
45. Mt 5,11-12.
46. 1 Cr 2,14.