Skip to content
Banner 10.2024
Ngôn ngữ

Tông huấn Hãy vui lên trong Chúa (Gaudete in Domino) về Niềm vui Kitô giáo (kỳ III)

Văn phòng Học Viện
2025-05-29 08:39 UTC+7 362
“Niềm vui” là một tư tưởng nòng cốt của Kitô giáo, bởi vì gắn liền với mầu nhiệm Nhập thể và Phục sinh. ĐTC Phalô VI nhấn mạnh đến sự cần thiết của niềm vui Kitô giáo, và thúc giục các tín hữu hãy vun trồng niềm vui như là một hồng ân của Thánh Linh giữa một thế giới đầy dẫy đau khổ và tranh chấp. Niềm vui Kitô giáo bắt nguồn từ sự kết hợp sâu xa với Thiên Chúa, và được diễn tả qua tình liên đới, canh tân bản thân và hòa giải.

TÔNG HUẤN
GAUDETE IN DOMINO
(Hãy vui lên trong Chúa)

CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHAOLÔ VI
VỀ NIỀM VUI KITÔ GIÁO

- Kỳ III-

IV. NIỀM VUI NƠI TÂM HỒN CÁC THÁNH

33. Anh chị em rất thân mến và các con yêu dấu, đó là niềm hy vọng chan chứa vui mừng được kín múc ngay từ chính nguồn mạch của Lời Thiên Chúa. Trong suốt hai mươi thế kỷ, nguồn mạch niềm vui ấy không ngừng tuôn chảy trong Hội Thánh, và cách riêng, nơi tâm hồn các thánh. Giờ đây, chúng ta cần gợi nhắc một vài âm vang của kinh nghiệm tâm linh ấy, mà trong sự đa dạng của các đặc sủng và ơn gọi riêng biệt, diễn tả mầu nhiệm của niềm vui Kitô giáo.

34. Đứng hàng đầu là Đức Trinh Nữ Maria, đầy ân sủng, Thân mẫn Đấng Cứu Thế. Đón nhận lời loan báo từ trời cao, người nữ tì của Thiên Chúa, Hiền Thê của Thánh Linh, và Thân mẫu của Con Một hằng cửu, Mẹ bộc lộ niềm vui của mình trước người chị họ Êlisabét ca ngợi đức tin của Mẹ: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, và thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi... từ nay, muôn thế hệ sẽ khen tôi diễm phúc” (47). Hơn bất kỳ thụ tạo nào khác, Mẹ đã nhận biết rằng Thiên Chúa đã thực hiện những điều cao cả: Danh Người là Thánh, lòng thương xót Người trải rộng, Người nâng cao kẻ khiêm nhường, Người trung tín với các lời hứa của mình.

Cuộc sống bên ngoài của Mẹ không tỏ ra khác biệt gì với đời sống thông thường, nhưng Mẹ suy niệm về mọi dấu chỉ nhỏ nhất của Thiên Chúa và ghi khắc trong lòng. Mẹ cũng không được miễn trừ đau khổ: Mẹ đứng đó, người Mẹ sầu bi, dưới chân thập giá, cách đặc biệt kết hiệp với hy lễ của Người Tôi Trung vô tội.

Nhưng Mẹ cũng mở lòng đón nhận trọn vẹn niềm vui của sự phục sinh; và Mẹ cũng được đưa lên trời cả hồn lẫn xác trong vinh quang thiên quốc. Là người được cứu chuộc đầu tiên, vô nhiễm nguyên tội từ giây phút đầu thai, là nơi cư ngụ tuyệt vời của Thánh Linh, là đền thờ tinh tuyền của Đấng Cứu Độ nhân loại, Mẹ vừa là Ái Nữ yêu dấu của Thiên Chúa, vừa là – trong Đức Kitô – Mẹ của mọi người. Mẹ là hình mẫu trọn hảo của Hội Thánh, vừa trong lữ hành trần thế, vừa trong vinh quang thiên quốc.

Biết bao lời ngôn sứ về Giêrusalem mới được ứng nghiệm nơi cuộc đời diễm phúc của Trinh Nữ Israel: “Tôi hớn hở vui mừng trong Đức Chúa, lòng tôi hoan hỷ trong Thiên Chúa tôi, vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng áo công chính cho tôi, như chú rể đội triều thiên, như cô dâu trang điểm bằng châu báu.” (48)

Cùng với Đức Kitô, Mẹ quy tụ nơi mình mọi niềm vui; Mẹ sống niềm vui trọn hảo được hứa ban cho Hội Thánh: Mater plena sanctae laetitiae (Mẹ tràn đầy niềm vui thánh thiện). Và đó là lý do chính đáng khiến con cái trần gian hướng về Mẹ, Đấng là Mẹ của niềm hy vọng và ân sủng, mà xưng tụng Mẹ: Causa nostrae laetitiae (Căn nguyên của niềm vui của chúng con).

35. Sau Đức Maria, chúng ta thấy các vị tử đạo diễn tả niềm vui tinh tuyền và mãnh liệt nhất – khi thập giá Đức Giêsu được đón nhận bằng tình yêu trung tín nhất –. Ngay giữa cực hình, Thánh Linh đã đổ đầy trong các ngài một lòng khát khao nồng cháy được đón gặp Đấng Lang Quân. Khi chết và thấy trời mở ra, thánh Stêphanô chỉ là một chứng nhân đầu tiên trong vô số nhân chứng của Đức Kitô. Và cho đến hôm nay, tại nhiều quốc gia, biết bao người vẫn chấp nhận liều mình vì Đức Kitô, có thể nói giống như thánh tử đạo Inhaxiô Antiôkia: “Giữa niềm vui tràn trề, tôi viết cho anh em, đang khi khát mong được chết. Khát vọng trần thế của tôi đã bị đóng đinh, và không còn lửa đam mê yêu mến xác phàm. Trong tôi chỉ còn một dòng nước sống thì thầm: ‘Hãy đến với Chúa Cha.’” (49)

36. Cũng vậy, sức mạnh của Hội Thánh, sự chắc chắn về chiến thắng của Hội Thánh, và niềm vui của Hội Thánh khi cử hành cuộc chiến thắng của các vị tử đạo, xuất phát từ việc Hội Thánh chiêm ngắm nơi họ hoa trái vinh quang của thập giá. Chính vì thế, vị tiền nhiệm của chúng tôi, Thánh Lêô Cả, từ ngai tòa Rôma, đã ngợi ca cuộc tử đạo của hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô như sau: “Quý giá thay trước mắt Thiên Chúa là cái chết của các thánh, và không hình thức tàn bạo nào có thể phá hủy một tôn giáo được xây dựng trên mầu nhiệm thập giá Đức Kitô. Hội Thánh không bị giảm sút nhưng được gia tăng nhờ bách hại. Và cánh đồng của Chúa được mặc lấy mùa gặt phong phú, khi hạt giống ngã xuống một mình, lại được nhân lên gấp bội trong cuộc tái sinh.” (50)

37. Tuy nhiên, trong nhà Cha có nhiều chỗ ở, và đối với những ai có trái tim được thiêu đốt bởi Thánh Linh, có nhiều cách chết đi cho chính mình để đạt đến niềm vui phục sinh thánh thiện. Đổ máu không phải là con đường duy nhất. Nhưng cuộc chiến cho Nước Trời bao hàm một sự say mê tình yêu, điều mà các bậc thầy thiêng liêng đã diễn tả bằng những lời thật sâu sắc. Chính tại đây, các kinh nghiệm nội tâm của họ gặp nhau, giữa sự đa dạng của các truyền thống thần bí, cả Đông phương lẫn Tây phương. Tất cả đều minh chứng cho cùng một hành trình linh hồn: per crucem ad lucem – qua thập giá đến ánh sáng, và từ thế gian này về với Chúa Cha, trong hơi thở ban sự sống của Thánh Linh.

38. Mỗi một vị thầy tâm linh đều để lại cho chúng ta một sứ điệp về niềm vui. Các Giáo phụ Đông phương đặc biệt phong phú về các chứng từ về niềm vui trong Thánh Linh. Ông Origenê, chẳng hạn, thường mô tả niềm vui của người có sự hiểu biết thân mật với Đức Giêsu: “Linh hồn người ấy tràn đầy niềm vui, như cụ già Simêon. Trong đền thờ là Hội Thánh, người ấy bồng ẵm Đức Giêsu. Người ấy cảm nếm sự viên mãn của ơn cứu độ, vì đang ôm Đấng mà nơi Người, Thiên Chúa giao hòa thế gian với chính mình.” (51) Trong thời Trung cổ, giữa nhiều vị khác, bậc thầy thần bí Đông phương Nicholas Cabasilas đã cố gắng chứng minh rằng chính tình yêu Thiên Chúa dành cho mình đã mang lại nguồn vui sâu thẳm nhất. (52) Ở phương Tây, chỉ cần nhắc đến một số vị đại thánh đã chỉ dạy con đường nên thánh và vui mừng: thánh Âutinh, thánh Bênađô, thánh Đaminh, thánh Inhaxiô Loyola, thánh Gioan Thánh Giá, thánh Têrêsa Avila, thánh Phanxicô Salêsiô và thánh Gioan Bosco.

39. Chúng tôi muốn đặc biệt gợi nhớ đến ba khuôn mặt vẫn đầy sức thu hút đối với toàn thể Dân Chúa ngày nay. Trước hết là vị thánh nghèo ở Assisi, người mà biết bao tín hữu hành hương trong Năm Thánh khao khát bước theo. Đã từ bỏ mọi sự vì Chúa, thánh Phanxicô đã tái khám phá, qua nghèo khó thánh thiện, một điều gì đó giống như hạnh phúc nguyên thủy, khi thế giới còn nguyên tuyền từ bàn tay Đấng Tạo Hóa. Giữa khổ cực tột cùng, khi gần như đã mù lòa, ngài đã hát lên Bài ca Vạn vật bất hủ, ca ngợi người anh mặt trời, ca tụng toàn thể thiên nhiên – nay trở thành gương soi tinh trong vinh quang Thiên Chúa. Thậm chí ngài còn chúc tụng cả “chị chết phần xác” : “Phúc cho ai họa được thánh ý rất thánh của Chúa…”

40. Thời đại gần đây, thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu cho ta thấy con đường phó thác can đảm trong tay Thiên Chúa, Đấng mà chị trao gởi tất cả sự bé mọn của mình. Và không phải chị không cảm nghiệm sự vắng bóng của Thiên Chúa – điều mà thời đại chúng ta phải trải nghiệm khốc liệt: “Đôi khi, chú chim nhỏ (là hình ảnh mà chị dùng cho chính mình) dường như không thể tin rằng còn có điều gì khác ngoài những tầng mây đang bao phủ nó… Chính lúc ấy là giây phút của niềm vui trọn hảo đối với sinh linh yếu đuối bé nhỏ này… Thật là hạnh phúc biết bao khi nó vẫn ở lại đó, và nhìn về ánh sáng vô hình đang lẩn trốn khỏi đức tin của nó.” (53)

41. Cuối cùng, làm sao có thể không nhắc đến hình ảnh rạng ngời và là mẫu gương cho thế hệ chúng ta: chân phúc Maximilianô Kolbe, người môn đệ đích thực của thánh Phanxicô? Giữa những thử thách đẫm máu của thời đại chúng ta, ngài đã tự nguyện hiến mạng sống để cứu một người anh em không quen biết. Các chứng nhân kể lại rằng bình an nội tâm, sự thanh thản và niềm vui của ngài đã biến nơi khổ đau – vốn như hình ảnh của địa ngục – thành tiền sảnh của sự sống đời đời, cả cho các bạn tù bất hạnh và cho chính bản thân.

42. Trong đời sống của các con cái Hội Thánh, việc chia sẻ niềm vui của Chúa không thể tách rời việc cử hành mầu nhiệm Thánh Thể, nơi các tín hữu được nuôi dưỡng bằng Mình và Máu của Người. Nhờ được nuôi dưỡng như những khách lữ hành trên đường hướng về đời sống đời đời, họ đã được lãnh nhận cách bí tích những hoa quả đầu mùa của niềm vui cánh chung.

43. Trong bối cảnh này, niềm vui rộng lớn và sâu sắc đã được tuôn đổ nơi đáy lòng những tín hữu chân chính ngay trên trần gian không gì khác hơn là một thứ niềm vui “được tỏa lan”, giống như sự sống và tình yêu mà niềm vui là sự biểu lộ hạnh phúc của chúng. Niềm vui là kết quả của sự hiệp thông giữa con người và Thiên Chúa, và khát khao hướng tới một sự hiệp thông càng ngày càng phổ quát hơn. Tuyệt nhiên niềm vui ấy không thể khiến người được ban niềm vui rơi vào thái độ thu mình lại. Niềm vui ban cho tâm hồn một sự cởi mở phổ quát với thế giới loài người, đồng thời cũng làm lòng người thổn thức khát vọng thiên thu. Nơi những ai đã theo đường hướng đó, niềm vui làm sâu sắc nhận thức về thân phận kiếp lưu đày, nhưng cũng giữ họ tránh khỏi cám dỗ từ bỏ vị trí cho Nước Trời mau đến. Niềm vui thúc đẩy họ tích cực hối hả hướng về sự viên mãn trên trời của lễ cưới Con Chiên. Niềm vui ấy thanh thản trải dài giữa khoảnh khắc lao nhọc trần gian và bình an của sự cư ngụ vĩnh hằng, theo sức hút của Thần Khí: “Nếu ngay trên trần gian này, vì chúng ta đã nhận được dấu ấn (của Thần Khí làm con), mà chúng ta kêu lên: ‘Abba! Cha ơi!’, thì biết bao vui mừng sẽ trào dâng khi chúng ta được phục sinh và thấy Ngài mặt đối mặt! Khi tất cả các thành viên như một dòng nước lớn tuôn trào bài ca mừng rỡ, tôn vinh Đấng đã cho họ sống lại và ban cho họ sự sống đời đời? Nếu những dấu ấn đơn sơ này, bao bọc con người từ mọi phía, đã khiến người ta kêu lên: ‘Abba! Cha ơi!’, thì không biết ơn huệ trọn vẹn của Thần Khí sẽ làm được những gì khi được Thiên Chúa ban cho nhân loại? Ơn ấy sẽ làm cho chúng ta nên giống Ngài và thực hiện ý muốn của Cha, vì ơn ấy sẽ làm cho con người nên hình ảnh và giống Thiên Chúa.”  (54) Ngay trên trần gian này, các thánh đã cho chúng ta nếm trước hình ảnh tương tự ấy.

V. NIỀM VUI CHO TOÀN DÂN

44. Khi lắng nghe bản hòa ca của muôn tiếng nói các thánh, phải chăng chúng ta đã quên đi hoàn cảnh hiện tại của xã hội loài người, vốn xem ra ít hướng về những điều siêu nhiên? Phải chăng chúng ta đã đánh giá quá cao các khát vọng thiêng liêng của các tín hữu ngày nay? Phải chăng chúng ta đã giới hạn lời huấn dụ này vào một số ít người thông thái và học thức? Chúng ta không thể quên rằng Tin Mừng, với ánh sáng rực rỡ đơn sơ và nội dung trọn vẹn, đã được loan báo trước tiên cho người nghèo và kẻ khiêm nhường.

45. Nếu chúng tôi đã gợi lên chân trời rạng ngời của niềm vui Kitô giáo, thì hoàn toàn không phải để khiến bất kỳ ai trong anh chị em cảm thấy nản lòng khi lời gọi của Thiên Chúa chạm đến một con tim đang còn bị chia đôi. Trái lại; chúng tôi xác tín rằng niềm vui của chúng tôi – cũng như của anh chị em – chỉ được trọn đầy khi chúng ta cùng nhau, trong trọn niềm tín thác, ngước nhìn về Đấng “là Đấng khởi xướng và kiện toàn đức tin. Vì niềm vui còn ở phía trước, Người đã chịu khổ hình thập giá, không nề sự ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến Đấng đã chịu sự chống đối lớn lao từ phía các tội nhân, để khỏi nản lòng mà ngã quỵ.” (55)

46. Lời mời gọi của Thiên Chúa Cha đến tham dự trọn vẹn vào niềm vui của Abraham, vào đại tiệc vĩnh cửu của Hôn Lễ Con Chiên, là một lời mời phổ quát. Bất cứ ai, miễn là họ biết lắng nghe và sẵn sàng, đều có thể cảm nhận được lời mời gọi ấy từ đáy lòng mình, cách riêng trong Năm Thánh này, khi Hội Thánh mở ra cách dồi dào hơn cho mọi người kho tàng lòng thương xót của Thiên Chúa. “Vì lời hứa ấy là dành cho anh em, cho con cháu anh em, và cho tất cả những ai ở phương xa – tức là cho mọi người mà Chúa là Thiên Chúa của chúng ta sẽ kêu gọi về với Người.”  (56)

47. Chúng ta không thể nghĩ về Dân Thiên Chúa như một điều gì trừu tượng. Ánh mắt chúng ta dừng lại trước tiên nơi thế giới của các trẻ em. Bao lâu chúng còn được tìm thấy nơi tình thương của những người gần gũi một cảm giác an toàn thiết yếu, chúng có khả năng đón nhận, ngỡ ngàng, tín thác và tự hiến một cách tự nhiên. Các em chính là những chủ thể xứng hợp nhất để lãnh nhận niềm vui Tin Mừng. Ai muốn vào Nước Trời – Đức Giêsu nói với chúng ta – trước hết phải học nơi trẻ nhỏ (57). Chúng tôi cũng nghĩ đến tất cả những ai đang dấn thân sâu xa trong trách nhiệm gia đình, nghề nghiệp và xã hội. Gánh nặng trách nhiệm của họ, trong một thế giới chuyển động quá nhanh, thường cản trở họ tận hưởng các niềm vui hằng ngày. Tuy nhiên, các niềm vui ấy vẫn hiện hữu. Chúa Thánh Linh muốn giúp họ tái khám phá những niềm vui ấy, thanh luyện và chia sẻ chúng.

48. Chúng tôi nghĩ đến thế giới của người đau khổ, và đến những ai đã đến buổi hoàng hôn của cuộc đời. Niềm vui của Thiên Chúa đang gõ cửa những khổ đau thể lý và tinh thần của họ – không phải để châm biếm, mà để thực hiện nơi đó công trình hoán cải đầy nghịch lý của Người.

49. Tâm trí và con tim chúng tôi cũng hướng đến tất cả những ai đang sống ngoài phạm vi hữu hình của Dân Thiên Chúa. Khi điều chỉnh cuộc đời mình sao cho phù hợp với tiếng gọi sâu thẳm nơi lương tâm – vốn là tiếng vọng của Thiên Chúa – họ đang bước đi trên hành trình dẫn tới niềm vui.

50. Nhưng Dân Thiên Chúa không thể tiến bước nếu không có những người dẫn đường. Đó là các mục tử, thần học gia, linh hướng, linh mục và những ai cộng tác với các ngài trong việc xây dựng các cộng đoàn Kitô hữu. Sứ mạng của họ là giúp anh chị em mình bước đi trên những con đường của niềm vui Tin Mừng, giữa lòng những thực tại cuộc sống mà họ không thể tránh thoát.

51. Quả thật, chính tình yêu bao la của Thiên Chúa đang quy tụ về Thành Thánh những người đến từ bốn phương trời trong Năm Thánh này, dù họ ở gần hay còn ở xa. Và bởi vì tất cả những ai được mời gọi – tức là tất cả chúng ta – đều ở mức độ nào đó là những tội nhân, nên hôm nay, chúng ta phải thôi cứng lòng, để lắng nghe tiếng Chúa và đón nhận lời mời gọi của đại xá, như ngôn sứ Giêrêmia đã loan báo: “Ta sẽ thanh tẩy chúng khỏi mọi tội chúng đã phạm đến Ta; mọi lỗi lầm khiến chúng xúc phạm đến Ta và phản bội Ta – Ta sẽ thứ tha tất cả. Và Giêrusalem sẽ là niềm vui của Ta, là niềm vinh dự và vinh quang của Ta trước mặt mọi dân tộc trên mặt đất.”  (58) Và cũng như lời hứa tha thứ ấy – và nhiều lời hứa khác nữa – chỉ đạt đến ý nghĩa viên mãn nơi hy tế cứu độ của Đức Giêsu, Người Tôi Trung đau khổ, thì chính Người – và chỉ mình Người – mới có thể nói với chúng ta, trong giây phút hệ trọng của đời sống nhân loại: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (59) Nhất là Chúa muốn giúp chúng ta hiểu rằng việc hoán cải mà Người mời gọi không phải là một bước lùi – như là khi phạm tội – nhưng là một khởi hành, một tiến bước vào trong tự do đích thực và niềm vui. Đó là lời đáp trả cho một lời mời gọi xuất phát từ chính Người – một lời mời vừa đầy yêu thương, vừa tôn trọng, vừa khẩn thiết: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng, hãy đến cùng Ta, và Ta sẽ cho anh em được nghỉ ngơi. Anh em hãy mang lấy ách của Ta, và học với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Và tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng!” (60)

52. Thật vậy, có gánh nặng nào đè nặng hơn tội lỗi? Có nỗi sầu khổ nào cô đơn hơn thân phận của người con hoang đàng, như thánh Luca đã thuật lại? Và ngược lại, có cuộc gặp gỡ nào sâu sắc hơn cuộc hội ngộ giữa người cha kiên nhẫn, giàu lòng thương xót và người con đã được hoàn sinh? “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi sám hối hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần sám hối.”  (61) Và ai là người không có tội, ngoại trừ Đức Kitô và Thân Mẫu vô nhiễm nguyên tội? Vì vậy, bằng lời mời gọi trở về với Chúa Cha qua việc sám hối, Năm Thánh – là một lời hứa về niềm hoan lạc cho toàn dân – cũng là một lời mời gọi tái khám phá ý nghĩa và thực hành bí tích Hòa Giải. Theo truyền thống thiêng liêng tốt đẹp nhất, chúng tôi xin nhắc lại với các tín hữu và các mục tử rằng việc xưng thú các tội trọng là điều cần thiết, và việc xưng tội thường xuyên vẫn luôn là một nguồn mạch đặc biệt của sự thánh thiện, bình an và niềm vui.

**************


47. Lc 1,46-48.

48. Is 61,10.

49. Thánh Inhaxiô Antiôkia, Thư gửi tín hữu Rôma, VII; trong Patres Apostolici, ed. F. S. Funk, I, Tübingen, 1901, tr. 261; x. Ga 4,10; 7,38; 14,12.

50. Thánh Lêô Cả, Bài giảng LXXXII, dịp lễ kính các thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, VI; PL 54, 426; x. Ga 12,24.

51. Ôrigênê, Bài giảng về Tin Mừng theo thánh Luca, XV: PG 13, 1838-1839.

52. X. N. Cabasilas, De vita in Christo, VII: PG 150, 703-715.

53. Thư 175. Bản thảo tự thuật, Lisieux, 1956, tr. 52.

54. Thánh Irênê, Chống lạc giáo, V, 8, 1: PG 7, 1142.

55. Dt 12,2-3.

56. Cv 2,39.

57. X. Mc 10,14-15.

58. Gr 33,8-9.

59. Mc 1,15.

60. Mt 11,28-29.

61. Lc 15,7.