Skip to content
Banner 10.2024
Ngôn ngữ

Đàm đạo về “Summa Contra Gentiles” của thánh Tôma Aquinô - Kỳ XI

Văn phòng Học Viện
2025-11-07 08:11 UTC+7 344
Tác phẩm "ĐÀM ĐẠO VỀ SUMMA CONTRA GENTILES CỦA THÁNH TÔMA AQUINÔ", của Linh mục Giuse Phan Tấn Thành, OP., là lời giới thiệu và tóm tắt về bộ Summa Contra Gentiles – bộ tổng luận quan trọng nhưng ít được biết đến của thánh Tôma Aquinô. Học viện Thần học Đa Minh đã giới thiệu cuốn sách này trước đây. Tác giả và Học viện Thần học Đa Minh tiếp tục đăng nội dung của cuốn sách, theo từng kỳ tương ứng với các mục trong bố cục tác phẩm, nhằm phục vụ nhu cầu của độc giả được rộng rãi hơn.

Đàm đạo về “Summa Contra Gentiles”

của thánh Tôma Aquinô

(1225-1274)

*****

Kỳ XI

Mục 10. Những thụ tạo có trí tuệ

Sau chủ đề về sự tạo dựng nói chung và sự phân biệt các loài thụ tạo, thánh Tôma bước sang chủ đề thứ ba của quyển Hai dành cho việc nghiên cứu vài thụ tạo nói riêng, đặc biệt là các loài có trí tuệ như là thiên thần và loài người (CG II, 46-101). Như vậy tác giả không bàn về tất cả mọi loài thụ tạo mà chỉ dừng lại ở các thụ tạo có trí tuệ.

Vì lý do gì?

Như đã nói trong mục trước, giữa các loài thụ tạo có một cấp bậc hoàn hảo. Các thụ tạo có trí tuệ được xếp ở hàng đầu bởi vì chúng giống với Thiên Chúa xét theo bản tính thiêng liêng và trí tuệ. Thánh Tôma lập luận như sau: tất cả mọi thụ tạo đều chia sẻ phần nào đặc tính hiện hữu của Thiên Chúa, nhưng đặc biệt các loài có trí tuệ còn giống với Thiên Chúa xét về hoạt động nữa, bởi vì Ngài là Đấng có trí tuệ và ý muốn, nhờ đó chúng có khả năng hiểu biết và yêu mến Ngài.

Đâu là đặc điểm của các thụ tạo có trí tuệ?

Theo thánh Tôma, trong số các đặc điểm chính, ta có thể kể đến ý chí tự do, nghĩa là hoạt động với ý thức (khác với loài thú vật hoạt động theo bản năng); họ có khả năng phán đoán để nhận định có nên làm hoặc không nên làm một điều gì đó. Một đặc điểm nữa là họ không phải là vật chất, bởi vì hoạt động của trí tuệ vượt lên trên các thực tại vật chất; nếu họ bị lệ thuộc vào vật chất thì họ bị giới hạn vào thực tại ấy. Vì thế, các thụ tạo có trí tuệ thì cũng tự lập (subsistens), nghĩa là có thể hiện hữu độc lập khỏi thân xác. Từ đó, ta có thể nêu thêm một đặc tính nữa là không bị hủy hoại; bởi vì vật chất thì mới chịu hủy hoại tan rã bởi vì gồm bởi nhiều thành phần khác nhau, còn các loài thiêng liêng thì đơn thuần cho nên không bị phân hủy. Nói cách khác, các loài thiêng liêng thì bất tử: nói đúng ra, đặc tính bất tử không phải là một yêu sách của chúng, nhưng là một hồng ân mà Thiên Chúa ban từ khi tạo dựng.

Như đã nói trên đây, các thụ tạo có trí tuệ bao gồm các thiên thần và loài người. Thánh Tôma nói gì về các thiên thần?

Khác với cuốn Tổng luận thần học, trong tác phẩm đang bàn, thánh Tôma ít đề cập đến các thiên thần, có lẽ vì đề tài này được biết nhờ mặc khải hơn là nhờ lý trí. Nói cách khác, phần lớn của chương này được dành cho loài người, và phải thú nhận rằng bàn về loài người thì khó hơn bàn về các thiên thần.

Tại sao vậy?

Lý do không phải tại vì không ai thấy các thiên thần cho nên muốn nói thể nào cũng được, nhưng tại vì con người là một hợp thể gồm bởi thân xác là yếu tố vật chất và linh hồn là yếu tố phi vật chất: làm thế nào mà hai yếu tố ấy có thể kết hợp với nhau được? Lịch sử triết học đã đưa ra nhiều ý kiến trái ngược nhau, và thánh Tôma muốn trình bày ý kiến nào phù hợp hơn cả với đức tin Kitô giáo (CG II,56-90).

Liên quan đến sự kết hợp giữa linh hồn với thân xác, đã có những ý kiến nào?

Một ý kiến cho rằng linh hồn pha trộn với thân xác thành một hợp thể. Thế nhưng, sự pha trộn chỉ có thể xảy giữa các yếu tố vật chất nhằm tạo ra một thực thể mới (thí dụ như nước và muối), chứ không thể thực hiện giữa một yếu tố vật chất và một yếu tố thiêng liêng.

Một ý kiến nữa cho rằng linh hồn chỉ tiếp xúc hay đụng chạm với thân xác mà thôi. Thế nhưng nếu linh hồn chỉ tiếp xúc với thân xác thì nó sẽ ở bên ngoài thân xác chứ đâu kết hợp với nhau thành một con người.

Thánh Tôma tìm cách giải thích sự kết hợp bằng việc sử dụng học thuyết của triết gia Aristote qua hai ý niệm “mô hình” (forma) và “chất thể” (materia). Linh hồn là chất thể bản thể của thân xác. Tác giả không chấp nhận học thuyết Platon đang thịnh hành vào lúc ấy.

Chủ trương của ông Platon như thế nào?

Theo triết gia này, linh hồn không kết hợp với thân xác theo kiểu mô hình và chất thể, nhưng như là động cơ để điều khiển thân xác. Ông cho rằng hồn và xác hợp với nhau không như ông Nam mặc lấy chiếc áo, nhưng như ông Nam sử dụng chiếc áo. Thân xác là dụng cụ của linh hồn, chứ không kết hợp với linh hồn để làm nên con người. Thánh Tôma nói rằng chủ trương như vậy thì con người đâu còn là một chủ thể gồm bởi hồn và xác nữa, nhưng là hai thực thể hoàn toàn khác biệt, và chỉ hoạt động chung với nhau về phía đối tượng, chứ không chung với nhau về phía tác nhân.

Tác giả muốn nói gì vậy?

Để dễ hiểu sự phân biệt này, tác giả đưa ra một sự so sánh. Khi một đoàn thuyền chài khiêng một chiếc thuyền lên bờ, ta thấy có một hoạt động chung về phía đối tượng, nhưng được thực hiện bởi nhiều chủ thể. Quan niệm của ông Platon về sự kết hợp giữa hồn và các cũng tương tự như vậy: hồn và xác là hai chủ thể cùng nhau hoạt động. Trái lại, thánh Tôma khẳng định rằng tuy rằng hồn và xác có những cách thức hoạt động riêng biệt, như cả hai hợp tác với nhau thành một chủ thể (chứ không phải là hai) để hoạt động. Chúng ta sẽ còn trở lại vấn đề về sự kết hợp giữa hồn và xác. Ở đây chúng tôi muốn nói đến một điểm khác biệt nữa giữa ông Platon và thánh Tôma liên quan đến con số các linh hồn.

Con người có mấy linh hồn?

Ông Platon cho rằng con người có ba hồn: trí hồn (anima rationalis), giác hồn (anima sensitiva), sinh hồn (anima vegetativa). Ông đặt cư sở trí hồn ở trong não, giác hồn ở nơi trái tim, sinh hồn ở gan. - Thánh Tôma vặn lại: nếu con người có ba hồn tách biệt nhau thì sẽ thành ba người hoặc ba cá thể chứ đâu còn là một nữa! Vì thế phải chấp nhận rằng con người chỉ có một hồn, đó là trí hồn; nó đảm nhận ba chức năng: sự sống, cảm giác và trí tuệ.

Thực ra, liên quan đến bản tính của linh hồn và sự kết hợp của nó với thân xác, ngoài các ông Platon và Aristote, còn nhiều học thuyết nữa (của các ông Galeno, Empedocle), mà thánh Tôma đã dừng lại để phê bình, trong số đó có học thuyết cho rằng linh hồn cũng là thân xác.

Tại sao có chủ trương kỳ lạ vậy?

Họ đưa ra ba lý chứng như sau 1/ Đứa con có nhiều điểm giống người cha, không những về thân thể mà còn về nhiều nét của tính tình tâm lý nữa. 2/ Linh hồn cũng càm thấy đau khổ với thân xác. 3/ Khi chết, linh hồn tách lìa khỏi thân xác; thế nhưng duy chỉ hai thân thể mới tách lìa nhau.

Thánh Tôma trả lời thế nào?

Tác giả cực lực chống lại chủ trương linh hồn cũng là thân xác bởi vì nói như vậy là chấp nhận con người có hai thân xác. Thế nhưng làm thế nào mà hai thân xác lại có thể ở tại một chỗ được? Mặt khác, mỗi thân xác gồm bởi nhiều thành phần và cần có một yếu tố duy trì chúng được kết hợp với nhau. Nếu linh hồn cũng là thân xác thì lấy gì mà duy trì sự hợp nhất? Không lẽ phải nhờ đến một yếu tố khác hay sao? Dù sao, thánh Tôma cho rằng sở dĩ có những người chủ trương linh hồn là một thân xác là bởi vì họ không thể hình dung được làm thế nào linh hồn có thể hiện hữu nếu không có thân xác. Họ không thể nghĩ ra một thế giới vượt trên mọi hình thái vật chất.

Sau khi đã phi bác các quan điểm sai lầm liên quan đến sự kết hợp giữa linh hồn và thân xác, thánh Tôma trình bày quan điểm của ngài như thế nào?

Như đã nói trên đây, tác giả sử dụng triết học Aristote để giải thích mối tương quan này, và chủ trương rằng linh hồn là “mô thể” của thân xác. Linh hồn mang lại sự hiện hữu cho thân thể, làm cho thân thể sống động. Linh hồn và thân xác hợp thành một thực thể là con người. Sự kết hợp này thật là diệu kỳ, bởi vì con người gồm bởi một yếu tố vật chất và một yếu tố thiêng liêng. Linh hồn có những hoạt động riêng biệt (chẳng hạn như hiểu biết, ước muốn), vượt trên phạm vi khả giác; tuy nhiên linh hồn cần đến các cơ quan của thân xác, chẳng hạn như mắt để thấy, tai để nghe. Vì thế giữa đôi bên có sự tương tác họp nên hoạt động của một chủ thể là con người.

Linh hồn kết hợp với thân xác như thế nào?

Vì linh hồn là mô thể của thân xác, cho nên kết hiệp trực tiếp với thân xác chứ không cần đến một yếu tố nào làm trung gian. Linh hồn làm cho thân xác được sinh động. Một đặc điểm của sự kết hiệp này là tất cả linh hồn hiện diện trong toàn thể thân xác cũng như trong từng phần của nó: toàn thể linh hồn ở trong đầu, mỗi bàn tay, bàn chân, trong tim gan, vv. bao lâu mà các bộ phận ấy còn là thành phần của thân xác, bởi vì nếu tay bị cắt đứt thì không còn là bộ phận của thân thể nữa. Lý do bởi vi linh hồn là một thực thể đơn thuần chứ không thể phân mảnh.

Sau khi đã bàn về sự kết hợp giữa linh hồn và thể xác, thánh Tôma đi vào một chi tiết cụ thể, đó là trí tuệ của con người. Chung quanh đề tài này có nhiều câu hỏi được đặt lên, chẳng hạn như con người có mấy trí tuệ? Đối lại là câu hỏi: phải chăng mỗi người có một trí tuệ, hay là có một trí tuệ chung cho toàn thể nhân loại? Vào thời nay, câu hỏi này thật là ngớ ngẩn, nhưng trong triết học Hy-lạp có ý kiến cho rằng chỉ có một trí tuệ chung cho cả nhân loại. Chủ trương này trái ngược với kinh nghiệm của chúng ta, bởi vì mỗi người ý thức mình có một linh hồn và một trí tuệ riêng, chứ không chung chạ với ai hết. Mỗi người chúng ta suy nghĩ bằng trí tuệ của mình chứ không dùng trí tuệ của người khác cũng như vận động với thân xác của mình chứ không với thân xác của ai khác.

Tại sao lại đặt ra câu hỏi: con người có mấy trí tuệ?

Thánh Tôma tiếp nhận ý kiến này từ triết học Aristote. Con người có một trí tuệ nhưng với hai hoạt động, được đặt tên là “trí tuệ thụ động” (intellectus possibilis) và “trí tuệ tác động” (intellectus agens). Chức năng chính của trí tuệ là hiểu biết: đó là trí tuệ thụ động. Nhưng các ý tưởng đến từ đâu? Con người không có ý tưởng bẩm sinh, nhưng cần thâu thập kiến thức từ các ngoại quan (thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác) và các nội quan (chẳng hạn như óc tưởng tượng và ký ức), nhờ đó trong đầu chúng ta nảy ra hình ảnh (thí dụ khi nhìn thấy hòn đá, ta có hình ảnh về hòn đá). Đó là những hình ảnh cụ thể, cá biệt. Để biến các hình ảnh từ cá biệt thành phổ quát, cần có một tác động của trí tuệ, được đặt tên là “trí tuệ tác động”. Như vậy trí tuệ tác động phục vụ trí tuệ thụ động, bằng việc thanh lọc các hình ảnh cá biệt và chuyển sang ý tưởng, để trí tuệ sử dụng vào việc hiểu biết.

Linh hồn con người cùng chết với thân xác hay là bất tử?

Thánh Tôma đưa ra mười luận cứ để chứng minh linh hồn bất tử và năm luận cứ để phi bác những ai chủ trương linh hồn cùng chết với thân xác. Chúng tôi xin tạm gác qua một bên những luận cứ ấy. Chỉ cần biết rằng điều này thuộc về đức tin Kitô giáo, bởi vì nếu linh hồn cũng bị hủy hoại với thân xác thì còn chi là sự sống vĩnh cửu, thiên đàng, địa ngục nữa? Linh hồn con người đã được Chúa tạo dựng như là một thực thể thuần thiêng và bất tử.

Còn hồn của động vật có bất tử không, hay cùng bị hủy hoại với xác?

Hồn của động vật cùng chết với xác. Thánh Tôma chứng minh điều này bằng cách lập luận rằng hồn của động vật không phải là thiêng liêng nhưng là giác cảm; tác động của chúng lệ thuộc vào xác, chứ không độc lập. Chúng không hiểu biết và lý luận, nhưng hành động theo bản năng. Vì thế tất cả các thú vật thuộc cùng một loài thì cùng hoạt động như nhau, chẳng hạn các con chim én đều cùng làm tổ một cách giống nhau, các con nhện cùng làm mạng giống nhau. Chính vì hoạt động của hồn động vật lệ thuộc vào xác cho nên cùng chết với xác.

Linh hồn con người thì bất tử, nghĩa là không tận cùng, nhưng linh hồn có khởi đầu không?

Trong lịch sử triết học và thần học, có những người chủ trương rằng linh hồn không có tận cùng cho nên cũng không có khởi đầu. Chẳng hạn như ông Platon cho rằng các linh hồn đã hiện hữu từ muôn thuở, rồi sau đó mới kết hợp và rời bỏ thân xác theo những chu kỳ nhất định. Thánh Tôma cũng nhắc đến ông Origene, theo đó các linh hồn được dựng nên cùng với thế giới, nhưng trước khi có thế giới hữu hình, rồi sau đó mới kết hợp với thân xác. Tuy nhiên, ngài đã bác bỏ tất cả những lý thuyết cho rằng linh hồn được tạo dựng trước thân xác hoặc từ muôn thuở, và đưa ra 18 luận cứ để cho thấy sự sai lầm của chúng. Chúng tôi chỉ lấy hai luận cứ làm thí dụ.

Luận cứ thứ nhất. Giả như linh hồn được tạo dựng không có thân xác thì ta cần phải giải thích lý do vì sao nó lại kết hợp với thân xác. Sự kết hợp xảy ra hoặc trái ngược với bản tính hoặc là hợp với bản tính. Nếu trái ngược với bản tính thì con người, gồm bởi hồn và xác, sẽ là điều trái tự nhiên. Nói như vậy là phi lý! Còn nếu sự kết hợp của linh hồn với thân xác là hợp với bản tính, thì linh hồn phải kết hợp với thân xác ngay từ khi được dựng nên, chứ không trước hoặc sau đó.

Luận cứ thứ hai. Linh hồn con người hoặc là cần đến các giác quan, hoặc là không cần. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy rằng linh hồn con người cần đến giác quan, bởi vì nếu người nào thiếu một giác quan nào thì cũng thiếu sự hiểu biết đối tượng của giác quan ấy, chẳng hạn như người mù không có kiến thức về các màu sắc. Ngoài ra, nếu các giác quan không cần thiết cho linh hồn để hiểu biết, thì sẽ chẳng có liên hệ nào giữa tri thức giác cảm và tri thức trí tuệ. Nhưng sự thực thì ngược hẳn, bởi vì chính từ các tri thức giác cảm mà chúng ta đạt tới tri thức trí tuệ, khoa học và nghệ thuật. Bởi vậy linh hồn không được dựng nên biệt lập, không có thân xác. Linh hồn và thân xác bắt đầu hiện hữu đồng thời với nhau.

Linh hồn do cha mẹ sinh ra hay do Thiên Chúa dựng nên?

Thánh Tôma trả lời rằng linh hồn không do cha mẹ truyền sinh do hành vi giao hợp, bởi vì không thể nào một hữu thể thiêng liêng lại được sản xuất bởi nguyên lý vật chất như tinh trùng và trứng. Vì thế linh hồn chỉ có thể được dựng nên bởi Thiên Chúa mà thôi.

Thánh Tôma còn nói thêm. Cũng như linh hồn không bị tiêu diệt khi thân xác bị tiêu hủy, và cũng như sự sinh ra của thân xác không ấn định khởi đầu sự hiện hữu của linh hồn, cho nên cần phải khẳng định rằng linh hồn được hình thành do Thiên Chúa dựng nên. Kinh Thánh cũng nói đến điều này, như sách Sáng Thế đã viết: “Thiên Chúa đã nặn con người tự bụi đất và thổi hơi sống vào lỗ mũi của anh” (St 2,7). Như vậy, thân xác được tạo ta từ chất liệu đã có sẵn, còn linh hồn thì cho chính Thiên Chúa dựng nên.

Theo bản tính, linh hồn phải kết hợp với thân xác. Nhưng linh hồn kết hợp với thân xác con người hay với bất cứ thân xác nào cũng được, chẳng hạn như thân xác của thú vật?

Thánh Tôma trả lời rằng linh hồn là mô thể của thân xác con người, và chỉ kết hợp với thân xác con người chứ không thể nào với thân xác của thú vật. Con người có sinh hoạt trí tuệ, vì thế cần được tự do, với thân xác ngẩng đầu lên cao, chứ không nằm ngang như các thú vật.

Linh hồn con người theo bản tính phải kết hợp với thân xác. Tuy nhiên, linh hồn bất tử chứ không bị hủy hoại sau khi rời khỏi thân xác. Như vậy, sau khi con người chết, thì thân phận của linh hồn sẽ như thế nào?

Đây là câu hỏi mà triết học gặp bế tắc. Giả như linh hồn đã hiện hữu trên thiên giới trước khi kết hợp với thân xác, theo ý kiến của ông Platon, thì sau khi rời khỏi thân xác, linh hồn lại trở về thiên giới. Tuy nhiên, theo ông Aristote, linh hồn được dựng nên như là mô thể của thân xác, chứ không tự lập, vì thế ông đã lúng túng khi phải giải quyết thân phận linh hồn sau khi rời khỏi thân xác. Như vừa nói trên đây, không thể quan niệm rằng linh hồn sẽ nhập vào một thân xác khác (như thuyết luân hồi của vài tôn giáo). Về điểm này, ta cần nhờ đến mặc khải của đức tin. Theo đức tin Kitô giáo, sau khi rời khỏi thân xác, linh hồn bất tử sẽ về với Thiên Chúa. Nhưng đó chỉ là một tình trạng tạm thời, bởi vì cũng chính đức tin Kitô giáo dạy rằng đến ngày tận thế, thân xác sẽ được phục sinh và hồn xác lại được kết hợp với nhau. Đề tài này sẽ được bàn trong quyển Bốn.

Linh hồn theo bản chất là thiêng liêng, nhưng được dựng nên để kết hợp với thân xác. Thiên Chúa có dựng nên loài thiêng liêng nào mà không kết hợp với thân xác không?

Có chứ. Đức tin Kitô giáo dạy rằng ngoài linh hồn thiêng liêng, Thiên Chúa còn dựng nên các hữu thể thuần túy thiêng liêng mà ta gọi là các thiên thần (hay thiên sứ). Thánh Tôma nhìn lại toàn bộ công trình tạo dựng của Thiên Chúa, và ngài nhận ra một thứ tự trong các thụ tạo, đi từ loài khoáng chất, rồi lên đến loài thảo mộc, loài động vật, loài người, các thiên thần. Một trật tự đi lên: càng lên cao thì càng giống với Thiên Chúa hơn (CG II,91-101).

Có bao nhiêu thiên thần?

Không ai dám nói. Theo một vài đoạn Kinh Thánh, các thiên thần có đến muôn vàn ức ức triệu triệu, như đọc thấy trong sách Đaniel (7,10) và sách Khải Huyền (5,11). Thánh Tôma chú giải thêm rằng đang khi tất cả loài người chúng ta họp thành một “loại” (species), còn về phía các thiên thần thì mỗi vị là một “loại”, bởi vì nơi con người, sự phân biệt thành loại dựa trên vật chất, còn các thiên thần không có vật chất, cho nên mỗi vị là một “loại” riêng biệt. Nên biết là nhiều sách thần học dựa theo tác giả mạo danh là Đionisiô Areopagita (một đan sĩ sống vào thế kỷ V), còn nói đến chín phẩm thiên thần. Nhưng ngày nay, các nhà phê bình cho rằng sự phân chia này do óc tưởng tượng đặt ra chứ không có cơ sở nào trong mặc khải[1].

Loài người chúng ta thủ đắc kiến thức nhờ các giác quan. Các thiên thần không có thân xác, không có giác quan, thì thủ đắc kiến thức như thế nào?

Các thiên thần thủ đắc kiến thức không qua giác quan, nhưng qua chính bản tính của mình. Như vậy cách thức hiểu biết của các thiên thần có phần nào giống như Thiên Chúa.

Các thiên thần biết hết mọi sự không?

Theo thánh Tôma, mỗi thiên thần biết chính mình và biết các thiên thần khác một cách trực tiếp. Các thiên thần cũng biết các vật khác nữa, không chỉ cách chung chung, nhưng xét theo từng cá thể. Theo bản tính của mình, các thiên thần hiểu biết các vật nhanh chóng hơn chúng ta, bởi vì các ngài hiểu biết theo trực kiến chứ không theo đường lối lý luận vòng vo như loài người chúng ta. Tuy vậy, trí thức của các thiên thần không thể nào bằng Thiên Chúa được. Thiên Chúa hiểu biết tất cả mọi vật cùng một lúc. Các thiên thần không được như vậy.

Dù sao nên biết là mặc khải Kitô giáo đề cập đến Thiên Chúa và loài người, chứ không cung cấp nhiều dữ liệu về các thiên thần. Triết học lại càng mù tịt hơn nữa, bởi vì các thiên thần nằm ngoài tầm nhận thức của lý trí.

Đến đây, chúng ta kết thúc quyển Hai của tác phẩm “Tổng luận chống các dân ngoại”. Quyển thứ Nhất bàn về Thiên Chúa: về bản tính và hoạt động nội tại của Ngài. Quyển thứ Hai bàn về hoạt động ngoại tại của Thiên Chúa, tức là công trình tạo dựng.

Trong quyển kế tiếp, thánh Tôma sẽ bàn về Thiên Chúa như là cứu cánh của muôn vật. Ngài tạo dựng vũ trụ theo một kế hoạch thượng trí, và điều khiển mọi vật hướng về một cứu cánh. Chúng ta sẽ có dịp học hỏi về cách thức Ngài điều khiển các thụ tạo tùy theo bản tính của mỗi loài: loài vô tri vô giác thì khác với loài có trí tuệ và tự do.



[1] Tác giả sẽ bàn về đẳng trật các thiên thần ở mục 13 (quyển Ba).