Skip to content
Banner 10.2024
Ngôn ngữ

Đàm đạo về “Summa Contra Gentiles” của thánh Tôma Aquinô - Kỳ XII

Văn phòng Học Viện
2025-11-13 09:51 UTC+7 156
Tác phẩm "ĐÀM ĐẠO VỀ SUMMA CONTRA GENTILES CỦA THÁNH TÔMA AQUINÔ", của Linh mục Giuse Phan Tấn Thành, OP., là lời giới thiệu và tóm tắt về bộ Summa Contra Gentiles – bộ tổng luận quan trọng nhưng ít được biết đến của thánh Tôma Aquinô. Học viện Thần học Đa Minh đã giới thiệu cuốn sách này trước đây. Tác giả và Học viện Thần học Đa Minh tiếp tục đăng nội dung của cuốn sách, theo từng kỳ tương ứng với các mục trong bố cục tác phẩm, nhằm phục vụ nhu cầu của độc giả được rộng rãi hơn.

Đàm đạo về “Summa Contra Gentiles”

của thánh Tôma Aquinô

(1225-1274)

*****

Kỳ XI

QUYỂN BA:

Quyển Một bàn về bản tính Thiên Chúa là Hữu thể tuyệt đối; quyển Hai bàn về Thiên Chúa là Đấng Tạo thành muôn vật, nghĩa là nguyên nhân tác thành. Nhưng Thiên Chúa tạo thành vì mục đích gì, xét vì phàm ai làm cái gì thì cũng nhằm đạt một mục đích nào đó, phương chi là Thiên Chúa là Đấng Cao minh thượng trí, hành động với trí tuệ và ý muốn, tất nhiên Ngài phải nhắm đến một điều tốt lành nào đó. Đây là đối tượng của Quyển Ba, bàn về Thiên Chúa là cứu cánh của muôn vật, và điều này được biểu lộ qua việc quan phòng: Ngài đã an bài cho các thụ tạo đạt sự tốt lành theo bản tính của chúng, đặc biệt là đối với loài người là loài có trí tuệ và tự do.

Quyển này gồm bốn mục. Trước hết (mục 11), tác giả bàn về Thiên Chúa như là cứu cánh của mọi vật. Tiếp đến, tác giả xét đến cứu cánh của loài người nói riêng: Thiên Chúa là hạnh phúc của con người (mục 12). Một cách tương tự như vậy, tác giả bàn về việc quản trị vũ trụ trong hai mục: một mục (mục 13) đề cập sự quan phòng vạn vật nói chung, và một mục (mục 14) đề cập đến sự quan phòng đối với loài người nói riêng.

* * * * * * *

Mục 11. Thiên Chúa là cứu cánh của muôn vật

Khi làm việc gì, ta cũng nhắm đến một cứu cánh hay mục đích nào đó. Mục đích có thể đạt được mà cũng có thể không đạt được. Chẳng hạn như một y sĩ muốn chữa lành cho bệnh nhân. Ông mong là bệnh nhân được khỏe mạnh, nhưng có thể là ông không thành công. Tuy vậy, nếu ngay từ đầu, ông biết là mình sẽ không đạt được mục tiêu thì ắt là ông sẽ không làm.

Nhưng mà đôi khi ta cũng làm một công việc mà chẳng nhắm một mục tiêu nào chứ? Chẳng hạn như giải trí.

Giải trí cũng có mục đích chứ, đó là để thư giãn tâm trí hoặc thể xác, để rồi sau đó tiếp tục làm việc tốt hơn. Bởi vậy, sau khi đã nhận xét rằng ai làm một công việc gì là vì họ muốn đạt đến một mục đích, thánh Tôma thêm rằng mục đích nhắm tới là điều tốt. Nói khác đi, mỗi khi hành động thì ta nhắm đến một điều tốt.

Vì sao?

Bởi vì điều tốt là điều mà ta ưa thích. Nếu không thích thì ta đâu có làm. Vì thế mà nói được rằng: khi làm điều gì là mong đạt được một điều tốt.

Điều này chỉ áp dụng cho loài người hay cho cả thú vật nữa?

Cho cả hai. Tuy nhiên, có một sự khác biệt. Con người nhắm tới một điều tốt do mình hiểu biết và lựa chọn. Thú vật nhắm tới một điều không do nó tự chọn, nhưng là do người khác truyền. “Người khác” ở đây có thể hiểu là chính Đấng Tạo hóa đã dựng nên bản tính của nó, hoặc là một ông chủ ra lệnh cho nó.

Như vậy, tất cả các hành động của con người đều tốt hay sao, bởi vì đâu có ai muốn làm điều xấu?

Đúng thế. Có điều là lắm khi con người bị lừa gạt; họ nhắm tới một điều bên ngoài có vẻ tốt nhưng thực sự là không tốt.

Nếu các hành động của con người đều nhắm đến điều tốt, thì làm gì có điều xấu? Như vậy điều xấu ở đâu ra?

Thánh Tôma nói rằng khi hành động, con người nhắm đến điều tốt. Điều tốt nằm trong ý muốn của con người. Còn điều xấu thì nằm ngoài ý muốn[1]. Để hiểu điều này, chúng ta nên nhớ rằng ý chí (hay ước muốn) hành động theo sự chỉ dẫn của lý trí. Nếu lý trí phán đoán sai lầm, thì đó là lỗi tại lý trí, và ý chí chỉ tuân theo.

Thực tế cho thấy điều ngược lại. Có những lúc chúng ta cố tình phạm tội chứ đâu phải ngoài ý muốn đâu?

Khi phạm tội, quả thật là chúng ta làm điều xấu (điều ác), nhưng sở dĩ chúng ta làm như vậy là chúng ta thấy một khía cạnh tốt trong đó. Như vậy là chúng ta chạy theo điều mà chúng ta cho ta tốt nhưng thực sự nó xấu. Đã xảy ra một sự sai lầm trong phán đoán.

Nếu nói như vậy thì trên đời không có sự xấu hay sao? Sự xấu hay sự ác là gì?

Sự xấu là một sự thiếu điều tốt. Sự xấu không phải là cái gì tự nó tích cực, nhưng là thiếu sự tốt; cần phải đối chiếu với sự tốt thì ta mới hiểu được sự xấu. Thí dụ mù là một điều xấu bởi nạn nhân không thể thấy được: chúng ta có thể nói một người là mù bởi vì anh ta mất đi thị giác là điều cần có nơi con người; nhưng chúng ta không nói cái cây hoặc hòn đá là mù, bởi vì chúng đâu có thị giác. Một cách tương tự như vậy, chúng ta một con người là què quặt vì thiếu tay hoặc thiếu chân (đó là điều xấu đối với con người), nhưng không ai nói là con rắn què, bởi vì nó đâu có tay chân!

Nhưng sự mù lòa què quặt là cái xấu, cho nên phải nhìn nhận sự xấu hiện hữu chứ sao không?

Ta nên hiểu ngược lại, sở dĩ sự xấu hiện hữu là vì có cái tốt, nếu không có cái tốt thì sẽ không có cái xấu. Như vừa nói, chúng ta không trách cục đá là mù bởi vì nó đâu có mắt; trái lại, con người mù bởi vì có mắt. Vì thế thánh Tôma nói rằng “sự xấu hiện hữu ở trong sự tốt”, hoặc “nguyên nhân của sự xấu chỉ có thể là sự tốt”. Sở dĩ nói như vậy là tại sự xấu không hiện hữu, và do đó sự xấu không thể nào sinh ra sự xấu. Chỉ có sự tốt mới hiện hữu, và sự xấu do sự sự tốt gây ra. Vì thế mà ta nói rằng sự xấu hiện hữu trong sự tốt.

Nhưng mà sự tốt gây ra sự tốt, chứ đời nào sự tốt lại gây ra sự xấu! Sự xấu phá hủy sự tốt chứ?

Đúng thế, sự xấu phá hủy sự tốt, nơi mà nó cư ngụ. Tuy nhiên nó không thể tiêu diệt hoàn toàn sự tốt. Sự xấu có thể càng ngày càng tiến tới và gây tổn thất cho sự tốt nhưng không thể nào tiêu diệt hoàn toàn sự tốt được.

Vì sao?

Bởi vì sự xấu không hiện hữu tự lập nhưng cư ngụ trong sự tốt. Nếu sự tốt bị tiêu diệt hoàn toàn, thì sự xấu mất chỗ tựa, và do đó nó cũng mất luôn sự hiện hữu.

Nếu lập luận như vậy thì không thể nào có một sự xấu tối cao, giống như là một sự tốt tối cao, có phải không?

Đúng thế, phái Manikê chủ trương có Thiên Chúa tốt và Thiên Chúa xấu (Thần Thiện và Thần Ác), hai Chúa đối lập nhau. Thiên Chúa xấu là nguyên ủy của tất cả mọi sự xấu, giống như Thiên Chúa tốt là nguyên ủy của tất cả mọi điều thiện. Nhưng ta không thể chấp nhận chủ trương nhị nguyên, bởi vì sự xấu không tự hữu, và vì thế nguyên ủy của tất cả mọi sự xấu cũng không thể nào hiện hữu. Ngược lại, ta phải nói rằng khi làm bất cứ điều gì ta cũng nhắm tới điều tốt (hay điều thiện hảo), và hơn thế nữa, nhắm tới sự thiện tuyệt đối. Đối với người Kitô hữu, sự thiện tuyệt đối là chính Thiên Chúa.

Nhưng mà đâu phải tất cả mọi người đều biết Thiên Chúa và quy hướng về Ngài? Loài vô tri vô giác đâu có khái niệm gì về Thiên Chúa?

Thánh Tôma nói rằng trong mọi hành động, người ta điều nhắm tới một điều thiện. Chẳng hạn một người thợ mộc đóng cái ghế để ngồi. Ông có thể làm cái ghế để cho mình dùng; ông cũng có thể làm cái ghế vì có khách hàng nhờ ông làm. Khi đã làm xong cái ghế, thì bác thợ mộc mãn nguyện và chẳng nghĩ đến điều gì xa hơn nữa. Nhưng thánh Tôma mời gọi chúng ta đi xa hơn nữa. Chúng ta đừng nên dừng lại ở các tác nhân thụ tạo (tạm gọi là đệ nhị), nhưng hãy nhìn lên Thiên Chúa là tác nhân đệ nhất, tức là Đấng Tạo Hóa. Trên bình diện này, ta phải nói rằng Thiên Chúa tạo dựng muôn loài vì nhắm đến một điều thiện, và điều thiện ấy là chính Ngài, Đấng tuyệt hảo, toàn Thiện. Tất cả mọi thụ tạo đều quy hướng về cứu cánh tối hậu và duy nhất ấy, tức là chính Thiên Chúa. Nói cách khác, Thiên Chúa là cứu cánh tối hậu của vạn vật.

Phải hiểu Thiên Chúa là cứu cánh của vạn vật như thế nào?

Thiên Chúa là Đấng Toàn Thiện, từ đó mọi vật múc lấy sự hoàn thiện thuộc về mình. Vạn vật hướng đến Thiên Chúa, muốn trở nên giống với Ngài bằng cách nào đó. Trước hết, ta có thể nói rằng vật nào cũng muốn tồn tại chứ không muốn bị hủy diệt. Như vậy, vạn vật muốn được chia sẻ sự hiện hữu với Thiên Chúa. Thế nhưng duy có Ngài mới là Đấng Tự hữu, còn các thụ tạo chỉ được tham dự một phần mà thôi. Đàng khác, ta cũng có thể nói rằng vạn vật là phản ánh một ưu phẩm nào đó của Thiên Chúa, và cố gắng diễn đạt phần nào khuôn mẫu là Thiên Chúa. Từ những suy tư vừa nói, ta có thể kết luận rằng vạn vật hướng về Thiên Chúa như là cứu cánh. Sở dĩ điều này xảy ra bởi vì khi dựng nên vạn vật, Thiên Chúa đã chia sẻ cho chúng vài ưu phẩm của Ngài, dĩ nhiên là không đồng đều, nhưng theo nhiều cấp độ khác nhau. Vì thế có những cấp độ giống nhau giữa các thụ tạo với Thiên Chúa: có vật giống với Ngài ở chỗ là hiện hữu; có vật giống với Ngài không chỉ vì hiện hữu mà còn có sự sống nữa; có vật giống với Ngài vì có hiểu biết cảm giác, rồi lên cao nữa là là hiểu biết trí tuệ; lên cao hơn nữa là các hữu thể thuần thiêng, tức là các thiên thần.

Vì được thông phần vào sự tốt lành của Thiên Chúa cho nên các thụ tạo cũng trở thành nguyên nhân của sự tốt lành bằng các hành động của mình, theo như lời thánh Phaolô đã viết: “Chúng tôi là những cộng sự viên của Thiên Chúa” (1 Cr 3,9). Dĩ nhiên người làm điều xấu thì xa lìa Thiên Chúa bởi vì không còn là khí cụ của Thiên Chúa tốt lành nữa.



[1] Trong tiếng Việt, “xấu” có thể đối lại với đẹp (xấu xia), hoặc đối lại với tốt (xấu xa). Ở đây, xấu đối lại với tốt; và có khi cũng gọi là: ác, dữ. Thánh Tôma bản về điểm này ở CG III, 4-15.