Skip to content
Banner 10.2024
Ngôn ngữ

Đàm đạo về “Summa Contra Gentiles” của thánh Tôma Aquinô - Kỳ XIII

Văn phòng Học Viện
2025-11-16 09:59 UTC+7 118
Tác phẩm "ĐÀM ĐẠO VỀ SUMMA CONTRA GENTILES CỦA THÁNH TÔMA AQUINÔ", của Linh mục Giuse Phan Tấn Thành, OP., là lời giới thiệu và tóm tắt về bộ Summa Contra Gentiles – bộ tổng luận quan trọng nhưng ít được biết đến của thánh Tôma Aquinô. Học viện Thần học Đa Minh đã giới thiệu cuốn sách này trước đây. Tác giả và Học viện Thần học Đa Minh tiếp tục đăng nội dung của cuốn sách, theo từng kỳ tương ứng với các mục trong bố cục tác phẩm, nhằm phục vụ nhu cầu của độc giả được rộng rãi hơn.

Đàm đạo về “Summa Contra Gentiles”

của thánh Tôma Aquinô

(1225-1274)

*****

Kỳ XI

Mục 12. Thiên Chúa là hạnh phúc của con người

Trong mục trước, chúng ta đã nói rằng mọi vật đều hướng về Thiên Chúa như là cứu cánh tối hậu, bởi vì đó là ý định của Ngài khi tạo dựng nên muôn vật. Mặt khác, không phải tất cả mọi loài đều hướng về Ngài theo một cách thức như nhau: các loài vô tri giác hướng về Ngài qua việc thông dự vào một điều tốt lành nào đó, tựa như sự hiện hữu; còn những loài có trí tuệ thì hướng về Ngài qua sự hiểu biết và yêu mến. Như vậy có thể nói được rằng cứu cánh của các thụ tạo có trí tuệ là hiểu biết Thiên Chúa. Họ đạt được cứu cánh khi hiểu biết Thiên Chúa. Thật vậy, những ai có trí tuệ đều muốn biết căn nguyên của mình; đây là nguồn gốc của các nghiên cứu triết học và khoa học. Việc gì cũng có nguyên nhân của nó, và lý trí muốn khảo sát nguyên nhân ấy; tuy nhiên, lý trí không thỏa mãn với những giải đáp nửa vời, nhưng mà cứ lần mò lên mãi đến tận căn nguyên cuối cùng của vạn vật. Căn nguyên cuối cùng (hay cũng gọi là nguyên nhân đệ nhất) của vạn vật chính là Thiên Chúa. Từ đó, ta có thể khẳng định rằng cứu cánh tối hậu của con người là hiểu biết Thiên Chúa; điều ấy tạo nên hạnh phúc của con người. Điều này đã được khẳng định trong lời nguyện của Chúa Giêsu ngỏ với Chúa Cha: “Sự sống đời đời là được biết Cha là Thiên Chúa duy nhất và chân thật” (Ga 17,3).

Việc hiểu biết Thiên Chúa đâu có làm cho con người hạnh phúc. Có biết bao nhiêu người biết Chúa mà đâu cảm thấy hạnh phúc?

Khi nói đến việc “biết Chúa”, chúng ta đừng giới hạn vào lãnh vực hiểu biết trừu tượng. Con người (cũng như các thiên thần) có hai quan năng cao cấp nhất là trí tuệ và ý muốn. Vì thế hạnh phúc của con người không chỉ hệ ở sự hiểu biết suông mà còn kèm theo ý muốn nữa, nghĩa là ước mong, yêu mến và vui hưởng nữa. Tuy nhiên, thánh Tôma nhấn mạnh rằng hạnh phúc của con người hệ ở hành vi trí tuệ hơn là hành vi ý chí.

Tại sao vậy?

Bởi vì đặc trưng của con người (cũng như các thiên thần) là loài có trí tuệ. Vì thế hạnh phúc của con người hệ ở hành vi trí tuệ, chứ không phải ở hành vi ước muốn, bởi vì sự ước ao thèm muốn cũng gặp thấy nơi các loài thụ tạo thấp kém hơn con người. Dù sao, hạnh phúc là một đề tài rất hấp dẫn, được thánh Tôma đào sâu trong gần 40 chương (từ chương 26 đến chương 63) của quyển Ba. Tác giả bàn đến hạnh phúc vĩnh cửu của con người, chứ không chỉ giới hạn vào những điều làm cho chúng ta vui thích sung sướng trong chốc lát. Cụ thể, trong vấn đề này, trước hết tác giả loại bỏ những gì mà người đời nghĩ là hạnh phúc, nhưng kỳ thực chưa phải là hạnh phúc đích thực và bền vững; sau đó, ngài mới phân tích bản chất của hạnh phúc đích thực được biết nhờ mặc khải.

Những điều gì không mang lại cho con người hạnh phúc chân thật?

Thánh Tôma kể ra 10 điều: 1/ khoái lạc xác thịt; 2/ danh dự; 3/ tiếng tăm; 4/ tiền bạc; 5/ quyền hành; 6/ những điều tốt lành của thân thể; 7/ cảm xúc; 8/ hành vi nhân đức luân lý; 9/ hành vi khôn ngoan; 10/ nghệ thuật. Chúng ta nên ghi nhận là tác giả không chỉ loại trừ những giá trị trần gian mà ngay cả các nhân đức luân lý nữa!

Chúng ta hãy đi sâu một chút. Thứ nhất, tại sao hạnh phúc không hệ tại khoái lạc xác thịt?

Ở đây, khoái lạc xác thịt được hiểu về những khoái lạc trong sự ăn uống và tình dục. Thánh Tôma cho thấy rằng nó không phải là hạnh phúc đích thực vì nhiều lý do. Thứ nhất là bởi vì hạnh phúc phải là cái gì phù hợp riêng với bản chất đặc trưng của con người; nhưng những khoái lạc xác thịt thì chung cho cả thú vật nữa. Thứ hai, hạnh phúc là cứu cánh tối hậu của con người, biểu lộ nét cao quý nhất của con người; điều này được thể hiện nơi trí tuệ chứ không phải giác quan và cụ thể là xúc giác. Thứ ba, hạnh phúc đích thực hệ ở sự hoàn thiện con người; thế mà con người trở nên hoàn thiện nhờ việc kết hợp với hữu thể cao sang hơn mình chứ không phải với những cái gì thấp kém hơn mình như là đồ ăn và nhục dục. Thứ bốn, cứu cánh tối hậu của con người là Thiên Chúa, vì thế cái gì làm cho chúng ta đến gần Thiên Chúa thì càng mang lại hạnh phúc hơn; thế mà các khoái lạc xác thịt ngăn cản chúng ta đến gần Thiên Chúa, vì vậy không thể mang lại hạnh phúc đích thực. Thánh Tôma còn thêm nhiều lý chứng khác nữa, nhưng thiết tưởng chừng đó đã đủ rồi.

Tại sao hạnh phúc không hệ ở danh dự?

Bởi vì danh dự là sự kính trọng mà người khác dành cho ta. Nó là điều rất tương đối, bởi vì thái độ mà người đời dành cho ta có thể thay đổi, như tục ngữ có câu: “Được làm vua, thua làm giặc”.

Tại sao tiếng tăm không mang lại hạnh phúc?

Lý do cũng như tương tự như danh dự vừa nói trên đây. Người nổi tiếng là người được thiên hạ biết đến và thán phục. Người ta đi tìm tiếng tăm để được danh dự. Thế nhưng, nếu hạnh phúc không hệ ở danh dự thì càng không gắn với tiếng tăm. Vả chăng tiếng tăm đâu có bền vững, có lúc nổi lên như sóng cồn, rồi có lúc chìm lỉm xuống.

Tại sao hạnh phúc con người không hệ ở của cải tiền bạc?

Hạnh phúc đích thực phải là điều tốt nhất cho con người. Thế nhưng con người lớn hơn của cải, chứ của cải không lớn hơn con người. Mặt khác, con người mơ ước có nhiều của cải không như cứu cánh, nhưng là như phương tiện để đạt cái gì khác, chẳng hạn như để thân thể được lành mạnh, tâm hồn được thảnh thơi, không lo lắng. Trên thực tế, ta biết là người có nhiều tiền lắm của chưa hẳn là đã thoát khỏi lo lắng: họ lo giữ của hay sợ mất của.

Tại sao hạnh phúc không hệ ở việc nắm quyền thế?

Tại vì quyền thế mang theo nhiều rủi ro lắm. Người nắm quyền lực thường phải lo âu: nay ta đang giữ quyền, nhưng chưa biết ngày mai nó còn nằm trong tay ta nữa không? Biết đâu có người đang âm mưu chiếm đoạt quyền lực của ta.

Tại sao hạnh phúc không hệ tại các điều tốt lành của thân thể?

Các điều tốt lành của thân thể là sức khỏe, đẹp đẽ, mạnh mẽ. Đó là những điều tốt cho thân thể nhưng chưa phải là điều thiện hảo cho con người. Thân thể chỉ mới là phần hạ chứ chưa phải là phần thượng của con người. Mặt khác, những điều tốt lành vừa nói không mang tính bền bỉ. Không những sắc đẹp có lúc tàn phai, mà ngay cả sức khỏe cũng vậy: chúng nắm ngoài tầm kiểm soát của lý trí và ý chí.

Tại sao hạnh phúc không hệ ở các cảm giác?

Lý do cũng tương tự như điều vừa nói trên đây, đó là cảm giác không phải là điều thiện cao nhất của con người. Chúng thuộc về phần hạ, ở dưới các hoạt động của trí tuệ.

Kể cả các nhân đức luân lý cũng chưa tạo thành hạnh phúc cho con người. Tại sao vậy?

Bởi vì hạnh phúc là cùng đích của con người, còn các nhân đức chỉ là phương thế nhằm duy trì trật tự trong linh hồn con người. Các phương tiện dẫn đến cứu cánh chứ chưa phải là cứu cánh.

Còn nhân đức khôn ngoan thì sao?

Cùng một lý do như vừa nói. Nhân đức khôn ngoan điều hành hoạt động của các nhân đức luân lý, nhưng mục tiêu của nó không phải là đạt đến Thiên Chúa như là cùng đích của đời sống.

Nghệ thuật cũng vậy hay sao?

Đúng rồi. Nghê thuật nhằm sản xuất các tác phẩm đẹp đẽ, chứ không phải là cùng đích của đời sống. Nghệ thuật tồn tại ở cuộc đời này, chứ không phải là cùng đích cuộc đời chúng ta.

Nếu hạnh phúc không hệ tại 10 điều vừa nói, thì hệ tại cái gì?

Theo thánh Tôma, hạnh phúc của con người hệ tại việc chiêm ngưỡng chân lý. Thoạt nghe điều này, chắc nhiều người sẽ lắc đầu, bởi vì bao nhiêu triết gia truy tầm chân lý mà đâu có được hạnh phúc! Hiểu như vậy, tác giả sẽ dừng lại để giải thích đề tài này. Dù sao, để tránh hiểu lầm, chúng ta sẽ thấy rằng đạo lý về hạnh phúc ở đây dựa trên mặc khải Kitô giáo chứ không phải là khám phá của lý trí; ngoài ra cần thêm rằng hạnh phúc này chỉ đạt tới ở nơi vĩnh cửu chứ không phải là ở trên đời này.

Trước hết, thánh Tôma đi từ những khái niệm tổng quát, rồi dần dần sẽ đi sâu vào bản chất của hạnh phúc. Điều nhận xét đầu tiên là hạnh phúc của con người phải thuộc lãnh vực trí tuệ. Lý do không có gì khó hiểu, bởi vì loài người trổi vượt trên các loài thụ tạo khác ở chỗ có trí tuệ. Vì thế hạnh phúc của loài người cũng phải thuộc về lãnh vực này, như chúng ta có thể suy được từ những câu trả lời tiêu cực trên đây, nghĩa là hạnh phúc con người không nằm trong danh vọng, tiền tài, sắc đẹp, hoặc những điều tốt đẹp của thể xác và ngay cả các nhân đức luân lý. Mặt khác, việc chiêm ngắm chân lý đưa chúng ta lại gần với các thiên thần, là những hữu thể thuần thiêng.

Thế nhưng, như đã nói trên đây, có nhiều người biết Chúa mà đâu được hạnh phúc?

Đây là điều mà thánh Tôma sẽ lần lượt giải thích. Tác giả chấp nhận rằng không phải bất cứ thứ hiểu biết nào về Thiên Chúa cũng đều mang lại hạnh phúc. Nếu chúng ta chỉ biết tổng quát rằng Thiên Chúa là nguồn gốc của vạn vật, thì chưa đủ để được hạnh phúc. Trong quyển Một, tác giả đã đề cập đến sự hiện hữu của Thiên Chúa và hoạt động của Ngài; đọc xong những trang ấy, ta chẳng thấy hạnh phúc gì cả, ngoại trừ việc nhìn nhận rằng vũ trụ (bao gồm cả chúng ta) có một ông chủ điều hành. Nhưng việc hiểu biết như thế thì còn hời hợt lắm. Chúng ta chỉ biết rằng Thiên Chúa là Đấng Tạo hóa, khác với các thụ tạo khác. Những kiến thức của chúng ta về Ngài nói được là tiêu cực, theo nghĩa là chúng ta loại bỏ những điều bất toàn gặp thấy trong thế giới, tựa như Ngài không bị giới hạn bởi không gian và thời gian (vô biên vô tận), chứ chưa biết Ngài cách tích cực. Nói cách khác, sự hiểu biết ấy còn bất toàn, vì thế không làm cho chúng ta được hạnh phúc.

Nói cách khác, sự hiểu biết Thiên Chúa bằng con đường lý trí chưa đủ để mang lại cho ta hạnh phúc, vì thế chúng ta cần đến mặc khải để hiểu biết Thiên Chúa rõ hơn. Nhưng việc biết Chúa nhờ đức tin cũng đâu có làm cho chúng ta được hạnh phúc?

Đúng như vậy. Chúng ta là những người tin Chúa, biết Chúa nhưng vẫn chưa hạnh phúc. Lý do là vì sự hiểu biết hiện nay vẫn còn bất toàn, hoặc nói theo thánh Phaolô, chúng ta chỉ biết “lờ mờ như trong tấm gương”, hoặc theo ngôn ngữ của vài nhà huyền bí, “biết mà như không biết”. Vì thế chúng ta mong đợi ngày nào Thiên Chúa sẽ vén tấm màn ngõ hầu chúng ta có thể chiêm ngưỡng Ngài diện đối diện (1 Cr 13,12). Trong bối cảnh ấy, thánh Phaolô đối chọi tình trạng hiểu biết hiện nay nhờ đức tin với sự hiểu biết mai sau bằng trực kiến (2 Cr 5,7).

Hai cách hiểu biết ấy khác nhau như thế nào?

Hiện thời, bao lâu chúng ta còn sống trong thân xác, sự hiểu biết lệ thuộc vào tri thức khả giác. Vì lý do ấy, nói được là chúng ta chưa hiểu biết bản tính của linh hồn, chứ chưa nói bản tính của các thiên thần hay của Thiên Chúa. Chúng ta diễn tả Thiên Chúa theo những kiến thức thuộc thế giới khả giác. Hơn nữa, chúng ta sống trong thân xác, cho nên khó vươn lên thế giới siêu hình. Không lạ gì mà sự hiểu biết về Thiên Chúa còn bất toàn, như thánh Phaolô đã nói. Thánh Tôma đã chú giải đoạn văn 1 Cr 13,12 như thế này: “Chúng ta thấy Thiên Chúa lờ mờ trong tấm gương, theo nghĩa là chúng ta đã mang hình ảnh của Thiên Chúa, khác xa các thụ tạo cấp dưới. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện tại, sự hiểu biết tâm trí chúng ta khởi đi từ những sự vật khả giác; nói cách khác chúng ta biết Thiên Chúa từ các công trình của Ngài, chứ chưa thể hiểu biết bản tính của Ngài.

Nói như thế có nghĩa là bao lâu cón sống ở đời này, chúng ta chưa được hạnh phúc trọn vẹn phải không?

Đúng vậy. Ngoài giới hạn về sự hiểu biết vừa nói, bao lâu còn sống trên đời này, chúng ta vẫn ở trong tình trạng bất ổn, chẳng hạn sức khỏe bấp bênh, những tai họa rủi ro có thể xảy đến bất kỳ lúc nào. Như vậy thì làm thế nào mà hưởng hạnh phúc được? Cho nên phải chấp nhận rằng hạnh phúc cuối cùng của con người chỉ có thể đạt được ở đời sau. Hạnh phúc ấy hệ tại được nhìn thấy Thiên Chúa, theo như từ ngữ của Tân ước: “Họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8), “Khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta thấy Người như vậy” (1 Ga 3,2).

Làm sao mà ta có thể thấy Thiên Chúa được, bằng con mắt nào? Làm sao thấy mặt Thiên Chúa? Thiên Chúa làm gì có mặt để cho ta ngắm?

Kinh Thánh dùng những hình ảnh của thế giới hữu hình để diễn tả các thực tại vô hình; vì thế ta không thể hiểu theo nghĩa đen. Cũng như khi Chúa hứa cho các môn đệ sẽ dự tiệc trên trời (x. Lc 22,30), ắt hẳn Ngài không muốn nói rằng trên trời họ sẽ ăn nhậu suốt ngày! Khi thánh Gioan nói rằng chúng ta sẽ nhìn thấy Chúa, thì chúng ta phải hiểu là tiếp xúc trực tiếp (cũng như trong ngôn ngữ thông thường chúng ta nói “giáp mặt”, “diện đối diện”, “trực diện”). Nhờ việc tiếp xúc ấy, chúng ta trở nên giống Chúa, nghĩa là thông dự vào bản tính của Ngài. Dựa vào tư tưởng ấy, thần học diễn tả hạnh phúc con người hệ ở “biết được bản tính Thiên Chúa”, nghĩa là chia sẻ hạnh phúc của chính Chúa.

Làm thế nào biết được bản tính Thiên Chúa?

Như đã nói trên đây, chúng ta chỉ biết Thiên Chúa “không là gì”, cách phủ định, nghĩa là gạt bỏ những bất toàn gặp thấy trong thế giới chúng ta. Còn việc biết Thiên Chúa “là gì”, cách khẳng định thì chúng ta cần đến sự trợ giúp đặc biệt của Thiên Chúa. Thánh Tôma nói đến một ánh sáng thần linh, nhờ đó chúng ta có thể thấy Thiên Chúa, hiểu biết bản tính của Ngài. Dĩ nhiên, sự hiểu biết không như sự hiểu biết của lý trí giống như tình trạng hiện nay của chúng ta, nhưng là sự hiếu biết ở cấp cao hơn, sự hiểu biết mà Tân ước gọi là sự tỏ hiện của Thiên Chúa cho chúng ta (Ga 14,21). Thần học đặt tên cho nó là “ánh sáng vinh quang” (lumen gloriae), dựa trên những đoạn văn Kinh Thánh, tựa như Thánh vịnh 35,10: “Nhờ ánh sáng của Ngài, chúng con được nhìn thấy ánh sáng”, hoặc sách Khải huyền (22,5): Các Thánh trên trời sẽ nhìn thấy tôn nhan Thiên Chúa, “họ sẽ không cần ánh sáng của đèn, cũng chẳng cần ánh sáng mặt trời, vì Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ chiếu sáng trên họ, và họ sẽ hiển trị đến muôn thuở muôn đời” (x. Is 60,19).

Nhờ ánh sáng vinh quang ấy, chúng ta sẽ nhìn thấy Thiên Chúa, sẽ hiểu biết bản tính Thiên Chúa. Như vậy là chúng ta sẽ ngang bằng Thiên Chúa phải không?

Không phải. Một đàng, không loài thụ tạo nào, kể cả các thiên thần, có thể hiểu thấu bản tính Thiên Chúa giống như Ngài hiểu biết mình; đàng khác, không phải tất cả các thụ tạo đều được thấy Thiên Chúa như nhau.

Tại sao không loài thụ tạo nào có thể hiểu thấu Thiên Chúa?

Lý do khá đơn giản, đó là trí tuệ của loài thụ tạo (kể cả các thiên thần) thì có hạn; cho dù được sự hỗ trợ của ánh sáng vinh quang, thì nó vẫn còn hữu hạn chứ không thể nào ngang bằng với Thiên Chúa được. Duy chỉ Thiên Chúa mới hiểu thấu bản tính của mình mà thôi.

Tại sao không phải tất cả các loài thụ tạo đều được thấy Thiên Chúa như nhau?

Bởi vì Thiên Chúa đã muốn trong thế giới thụ tạo có sự đa dạng và cấp độ, cho nên trong việc hiểu biết Thiên Chúa cũng có cấp độ. Trí tuệ thiên thần thì cao hơn trí tuệ con người là điều chắc chắn. Tuy nhiên, chúng ta đừng vội nghĩ là các ngài thấy Chúa một trăm phần trăm, còn chúng ta chỉ thấy bốn hay năm mươi phần trăm. Không phải thế. Bản tính Thiên Chúa thì đơn thuần chứ không phân mảnh. Nhưng về phía các loài thụ tạo, có thể có cấp độ hiểu biết Thiên Chúa xét theo khả năng mà Ngài đã ban, chẳng hạn như các thiên thần thì hơn loài người.

Còn giữa loài người thì có sự phân biệt cấp độ không, hay là tất cả mọi người đều thấy Chúa như nhau?

Các lập luận của loài người chúng ta luôn luôn chịu ảnh hưởng của các phạm trù về lượng và phẩm, về thời gian và nơi chốn! Liên quan đến sự hiểu biết bản tính Thiên Chúa, chúng ta phải chấp nhận sự khác biệt giữa người này với người kia, nhưng chúng ta đừng vội đo lường bằng số lượng (nhiều ít) hoặc vị trí cao thấp, theo lối suy tư của đầu óc chúng ta sống trong thế giới vật chất. Chúng ta có thể hình dung sự khác biệt theo nghĩa là đa dạng đa sắc, không ai giống ai, như lời Chúa Giêsu: “Trong nhà cha Thầy có nhiều chỗ” (Ga 14,2). Tính đa dạng này một phần bắt nguồn từ ý định hào phóng của Thiên Chúa, một phần từ phần thưởng dành cho công trạng của mỗi người.

Ở trên trời, nhờ ánh sáng vinh quang, chúng ta chỉ nhìn thấy bản tính Thiên Chúa hay còn điều gì khác nữa không?

Khi nhìn thấy bản tính Thiên Chúa, chúng ta cũng nhìn thấy các vật do Ngài tạo dựng, bởi vì Ngài là nguyên nhân tác thành nên muôn loài. Thánh Tôma còn thêm rằng hiện nay, trí tuệ chúng ta chỉ hiểu biết các đối vật tuần tự, hết điều này rồi đến điều khác. Nhưng khi được thấy bản tính Thiên Chúa, chúng ta sẽ thấy tất cả mọi vật trong cùng một lúc. Như vừa nói trên đây, hiện nay, trên đời này, chúng ta bị lệ thuộc vào không gian và thời gian, cái trước cái sau, cái trên cái dưới. Nhưng khi được thông phần vào sự hiểu biết của Thiên Chúa, chúng ta cũng được thông dự một phần vào đặc tính vĩnh cửu của Ngài, nghĩa là nhìn thấy tất cả cùng một lúc và mãi mãi. Nói khác đi, chúng ta được thông phần vào đời sống vĩnh cửu của Ngài. Đó là điều chúng ta đọc thấy trong Tin mừng thánh Gioan: “Sự sống đời đời là biết Cha và Đấng mà Cha sai đến là Đức Giêsu Kitô” (Ga 17,3).

Có nghĩa là việc nhìn ngắm Thiên Chúa sẽ không bao giờ kết thúc?

Đúng thế. Như vậy mới là hạnh phúc đích thực chứ. Nếu mà sự hưởng kiến chỉ diễn ra trong một thời gian thì đâu có khác chi cuộc sống trên đời này. Một lần nữa, chúng ta nên lưu ý là ngôn ngữ của chúng ta bị lệ thuộc vào thời gian: vĩnh cửu có nghĩa là không bao giờ kết thúc. Nhưng đó chỉ là một đặc điểm của hạnh phúc mà thôi. Điều cốt yếu là được thông phần vào sự sống của Thiên Chúa, cùng với tất cả các ưu phẩm của Ngài: chân lý, thiện hảo, hạnh phúc, vân vân.

Có phải khi được nhìn thấy Chúa thì tất cả mọi ước mong của con người sẽ được toại nguyện không?

Chắc chắn như vậy. Nhưng xin được nhấn mạnh một lần nữa, chúng ta lý luận về những chuyện trên trời theo những kinh nghiệm mà chúng ta đã có ở dưới thế. Điều này chẳng có gì lạ. Chúa Giêsu cũng dùng những ngôn ngữ hình ảnh đó để giải thích Nước Trời, chẳng hạn như khi ví Nước Trời như một bữa tiệc. Điều quan trọng trong hình ảnh bữa tiệc không nằm ở chỗ ăn cho no bụng hay ngon miệng, nhưng là sự chia sẻ niềm hân hoan. Khi có biến cố nào đáng nhớ trên đời, chúng ta tổ chức bữa tiệc và mời bạn bè thân hữu tới chia vui. Nếu ăn một mình, thì cho dù dùng cao lương mỹ vị mấy đi nữa, ta vẫn chưa thấy hạnh phúc. Sau khi đã đặt tiền đề như vậy, chúng ta có thể nói được là việc nhìn thấy bản tính Thiên Chúa sẽ làm thỏa mãn tất cả những ước mong chính đáng của con người: ước mong được biết chân lý, ước mong được danh dự tiếng tăm, ước mong được giàu sang, vv. Thánh Tôma đã giải thích các ước mong đó được toại nguyện như thế nào khi được biết bản tính Thiên Chúa.

Thí dụ...

Con người là sinh vật có trí tuệ cho nên muốn biết chân lý. Ước mong này được thỏa mãn khi chiêm ngưỡng Thiên Chúa là chân lý đệ nhất. Như đã nói trên đây, một khi hiểu biết bản tính Thiên Chúa thì ta cũng biết tất cả mọi vật hiện hữu.

Con người ước muốn xếp đặt mọi công việc cho có thứ tự ngăn nắp. Hiện giờ, chúng ta điều khiển cuộc đời nhờ lý trí và các nhân đức, nhờ việc dấn thân vào đời. Ước muốn này sẽ được toại nguyện khi mà nhờ ánh sáng Chúa soi dẫn, chúng ta sẽ không còn sợ phải lạc đường.

Con người ước ao được danh giá. Trên đời này, lắm khi ước muốn này thúc đẩy ta đi tìm danh dự chức quyền, và khi đã được thì đâm ra kiêu căng. Còn trên trời, con người được tặng ban danh dự cao quý là được kết hợp với Thiên Chúa là Vua muôn vua (1 Tm 1,17) cho nên họ cũng được gọi là vua và được hiển trị muôn đời, như sách Khải huyền đã nói (Kh 22,5).

Con người ước mong được nổi tiếng, và tìm kiếm danh vọng. Các thánh trên trời được nổi nang không do tiếng tăm mà loài người tặng ban, nhưng do chính Thiên Chúa, như Thánh Vịnh đã nói: “Thiên Chúa ban cho kẻ nghèo hèn được vẻ vang chiến thắng”, vì thế “kẻ hiếu trung hãy vui mừng rạng rỡ” (Tv 149,4.5).

Con người ham muốn được giàu sang, vì thế trở nên tham lam, lo thu tích tiền của, không đếm xỉa đến người nghèo. Thế nhưng, trên thiên đàng, con người sẽ trở nên phú quý, bời vì họ được chiếm hữu Thiên Chúa, Đấng có tất cả mọi sự.

Con người ham muốn khoái lạc; và đây là điểm chung với thú vật; lòng ham muốn quá độ dẫn con người đến chỗ trụy lạc. Còn hạnh phúc vĩnh cửu thì vượt xa các khoái lạc nhục dục, bởi vì thuộc lãnh vực trí tuệ là nét làm cho con người vượt trên thú vật. Ngoài sự vui hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa thì bất tận, khác xa những khoái lạc vật chất mang tính nhất thời.

Con người mong muốn bảo tồn sinh mạng. Ước muốn này sẽ được mãn nguyện hoàn toàn với hạnh phúc vĩnh cửu. Sách Khải huyền mô tả các Thánh như thế này: “Họ sẽ không còn phải đói, không còn phải khát, không còn bị ánh sáng mặt trời thiêu đốt, và khí nóng hành hạ nữa... Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ” (Kh 7,16.17).