Skip to content
Banner 10.2024
Ngôn ngữ

Đàm đạo về “Summa Contra Gentiles” của thánh Tôma Aquinô - Kỳ XIX

Văn phòng Học Viện
2025-12-14 08:41 UTC+7 122
Tác phẩm "ĐÀM ĐẠO VỀ SUMMA CONTRA GENTILES CỦA THÁNH TÔMA AQUINÔ", của Linh mục Giuse Phan Tấn Thành, OP., là lời giới thiệu và tóm tắt về bộ Summa Contra Gentiles – bộ tổng luận quan trọng nhưng ít được biết đến của thánh Tôma Aquinô. Học viện Thần học Đa Minh đã giới thiệu cuốn sách này trước đây. Tác giả và Học viện Thần học Đa Minh tiếp tục đăng nội dung của cuốn sách, theo từng kỳ tương ứng với các mục trong bố cục tác phẩm, nhằm phục vụ nhu cầu của độc giả được rộng rãi hơn.

Đàm đạo về “Summa Contra Gentiles”

của thánh Tôma Aquinô

(1225-1274)

*****

Mục 15. Mầu nhiệm Nhất Thể Tam Vị (phần 2)

II. Thánh Linh

Đức tin Công giáo tuyên xưng một Thiên Chúa Ba ngôi, là Cha – Con – Thánh Linh. Sau khi đã tìm hiểu Đức Kitô là Con Thiên Chúa, bây giờ chúng ta tìm hiểu Thánh Linh. Trước khi đi sâu vào vấn đề, nên lưu ý về vấn đề dịch thuật từ ngữ. Trong tiếng Latinh, Ngôi Ba Thiên Chúa được gọi là Spiritus Sanctus. Khi chuyển sang tiếng Việt, chúng ta gặp thấy nhiều từ ngữ: Thánh Thần, Thánh Linh, Thần khí. Chúng tôi tạm dùng “Thánh Linh”.

Thánh Tôma sẽ trình bày những điểm sau đây: 1/ Những lạc thuyết về Thiên tính của Thánh Linh (c. 16). 2/ Đối lại, phải tuyên xưng rằng Thánh Linh là Thiên Chúa (c. 17), là một ngôi vị (c. 18-19); kế đó, tác giả bàn đến tương quan của Thánh Linh với các thụ tạo nói chung (c. 20) và với loài người nói riêng (c. 21), đặc biệt là vai trò của Thánh Linh trong việc dẫn đưa thụ tạo về với Thiên Chúa (c. 22). 3/ Sự phát xuất của Thánh Linh (c. 24-25).

-- --A. Lạc thuyết

Trong lịch sử thần học, có những học thuyết không nhìn nhận Thánh Linh là Thiên Chúa, mà coi Ngài như một thụ tạo. Ngoài ra còn một tranh luận thần học khác giữa Đông phương và Tây phương liên quan đến nguồn gốc Thánh Linh. Tin Mừng Gioan (15,20) nói rằng Thánh Linh xuất phát từ Cha, và bên Đông phương chủ trương như vậy; nhưng bên Tây phương còn thêm “xuất phát từ Cha và Con”.

Dựa vào đâu mà có người chủ trương rằng Thánh Linh là thụ tạo?

Họ đưa ra nhiều luận cứ. Ở đây chúng tôi chỉ tóm lại một vài luận cứ chính.

1/ Đức Kitô nói rằng Thánh Linh “không nói tự mình, nhưng sẽ nói tất cả những gì nghe được” (Ga 16,13). Như vậy, xem ra Thánh Linh không nói do thẩm quyền của mình, như thi hành một chỉ thị của người khác. Vì thế Thánh Linh là một thụ tạo.

2/ Kẻ được sai phái thì thấp hơn kẻ sai phái. Thế mà Thánh Linh được sai phái bởi Cha và Con, như thánh Gioan viết (Ga 14,26): “Thánh Linh mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, sẽ dạy các con mọi điều và nhắc lại những gì mà Thầy đã nói cho các con”. Do đó, Thánh Linh ở dưới Cha và Con.

3/ Những gì có liên quan đến Thiên tính thì Cha kết nạp Con, chứ chẳng nói gì đến Thánh Linh cả. Chẳng hạn như: “Không ai biết Con ngoại trừ Cha, và không ai biết Cha ngoại trừ Con” (Mt 11,27); ở đây không nhắc đến Thánh Linh; hoặc: “Sự sống đời đời hệ ở chỗ họ biết Cha là Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và Đức Giêsu là Đấng mà Cha đã sai đến” (Ga 17,3). Thánh Phaolô cũng nói đến Cha và Con, mà không nhắc đến Thánh Linh: “Ân sủng và bình an bởi Thiên Chúa là Cha chúng ta và bởi Chúa Giêsu Kitô” (Rm 1,7). “Đối với chúng ta, chỉ có một Thiên Chúa là Cha, Đấng tạo thành vạn vật và là cùng đích của chúng ta; và cũng chỉ có một Chúa là Đức Giêsu Kitô, nhờ Người mà chúng ta được hiện hữu” (1 Cr 8,1). Ở đây Thánh Linh không được nhắc đến, cho nên xem ra không phải là Thiên Chúa.

4/ Thiên Chúa không phải là Đấng cầu nguyện nhưng là Đấng mà chúng ta cầu nguyện. Thế mà thánh Phaolô viết rằng Thánh Linh cầu nguyện, cho nên không phải là Thiên Chúa: “Chính Thánh Linh tha thiếu khẩn nài cho chúng ta” (Rm 8,26).

5/ Nếu Thánh Linh thực sự là Thiên Chúa thì phải có bản tính Thiên Chúa. Thế mà Thánh Linh “phát xuất từ Cha” (Ga 15,26), nghĩa là lãnh nhận Thiên tính từ Cha. Nếu Người lãnh nhận Thiên tính từ Cha thì ắt là sinh ra bởi Cha, mà như vậy là Con Thiên Chúa. Thế nhưng đức tin dạy rằng chỉ có một Con Thiên Chúa, chứ không có hai; và Kinh Thánh không hề gọi Thánh Linh là Con Thiên Chúa. Vậy nếu Thánh Linh không được sinh bởi Thiên Chúa thì không thể lãnh nhận Thiên tính, cho nên không phải là Thiên Chúa. Nên biết đây là luận cứ của ông Ariô, theo đó Con và Thánh Linh là thụ tạo chứ không phải là Thiên Chúa; hơn thế nữa Con thì lớn hơn Thánh Linh và Thánh Linh phục vụ Con, và Con thì ở dưới Cha.

-- --B. Thánh Linh là Thiên Chúa

Chúng ta không thể nào chứng minh điều này bằng lý trí mà chỉ có thể dựa trên các bản văn Kinh Thánh. Chúng ta có thể trưng ra những luận cứ như sau. (Lưu ý: trong các bản dịch tiếng Việt, Spiritus Sanctus có thể mang nhiều hình dạng khác nhau: Thánh Linh, Thánh Thần, Thần Khí, Thánh Khí)

1/ Một đền thờ chỉ có thể cung hiến cho Thiên Chúa mà thôi. Thế mà Thánh Linh được cung hiến một đền thờ, tức là đền thờ thân thể chúng ta: “Anh em không biết rằng thân thể anh em là đền thờ Thánh Linh, Đấng ngự trong anh em...?” (1 Cr 6,19). Vì thế Thánh Linh là Thiên Chúa.

2/ Thánh hóa con người là công việc dành riêng cho Thiên Chúa, như có viết: “Ta là Chúa, Đấng thánh hóa các ngươi” (Lv 22,32). Thế mà việc thánh hóa lại gán cho Thánh Linh: “Anh em đã được tẩy rửa, được thánh hóa, được nên công chính nhân danh Chúa Giêsu và Thánh Linh là Thiên Chúa chúng ta!” (1 Cr 6,11, xem thêm 2 Tx 2,13). Do đó Thánh Linh là Thiên Chúa.

3/ Cũng như đời sống thể chất được ban nhờ linh hồn, thì đời sống ân sủng được ban nhờ Thiên Chúa. Thật vậy, Chúa Giêsu đã nói: “Cũng như Cha, là Đấng có sự sống, đã sai tôi và tôi sống vì Cha, thì kẻ nào ăn tôi cũng sẽ sống vì tôi” (Ga 6,57). Thế mà sự sống ấy đến nhờ Thánh Linh, như sách Tin Mừng nói cách đó không xa: “Chính Thánh Linh ban sự sống” (Ga 6,63). Thánh Phaolô cũng coi đời sống tâm linh bắt nguồn từ Thánh Linh: “Nếu nhờ Thánh Linh giúp đỡ mà anh em phá hủy các công tác của xác thịt, thì anh em sẽ sống” (Rm 8,13). Vì thế Thánh Thần có bản tính Thiên Chúa.

4/ Chúa Giêsu, để khẳng định Thiên tính của mình chống lại những người Do thái không chấp nhận Người ngang hàng với Thiên Chúa, đã nói rằng: “Cũng như Cha làm cho kẻ chết chỗi dậy và ban sự sống, thì Con cũng ban sự sống cho kẻ nào Người muốn” (Ga 5,21). Thế nhưng Thánh Linh cũng có quyền năng làm cho kẻ chết trỗi dậy, như thánh Phaolô quả quyết: “Nếu Thần khí đã làm cho Đức Giêsu chỗi dậy từ cõi chết ngự trong anh em, thì Đấng đã làm cho anh em chỗi dậy từ cõi chết cũng sẽ ban sự sống cho thân xác hay chết của anh em nhờ Thánh Linh ngự trong anh em” (Rm 8,11). Như vậy, Cha, Con, Thánh Linh đều làm cho kẻ chết trỗi dậy; cả ba vị đều là Thiên Chúa.

5/ Sự tạo dựng vũ trụ chỉ có thể là công trình của Thiên Chúa. Thế nhưng việc tạo dựng cũng được gán cho Thánh Linh, bởi vì Thánh vịnh (104,30) có lời khẩn cầu: “Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này”. Trong Cựu ước “sinh khí” còn viết thường vì chưa có mặc khải mầu nhiệm Thiên Chúa Tam vị; còn chúng ta sống dưới thời Tân ước, chúng ta có thể viết “sinh khí” chữ hoa, khi nghĩ đến Ngôi Ba Thiên Chúa.

6/ Thánh Phaolô viết: “Thần khí thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa. Vậy ai trong loài người biết được những gì nơi con người nếu không phải là thần trí của con người trong con người? Cũng thế, không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải là Thần khí của Thiên Chúa” (1Cr 2,10-11). Thế nhưng không thụ tạo nào có thể biết được những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa, như Chúa Giêsu đã nói: “Không ai biết Con ngoại trừ Cha, và không ai biết Cha ngoại trừ Con” (Mt 11,27). Cho nên Thánh Thần không phải là một thụ tạo. Trong đoạn văn trên đây, thánh Phaolô so sánh Thần khí nơi Thiên Chúa cũng tương tự như thần trí nơi con người. Thế nhưng thần trí ở trong con người chứ không phải là cái gì bên ngoài, xa lạ với con người. Vì thế Thánh Linh cũng không thể có bản tính xa lạ với Thiên Chúa.

7/ Kinh Thánh xem việc mặc khải các mầu nhiệm như là công việc độc đáo của Thiên Chúa: “Có một Thiên Chúa trên trời hé mở các mầu nhiệm” (Đn 2,28). Thế mà đối với thánh Phaolô, việc mặc khải các mầu nhiệm là công việc của Thánh Linh: “Có lời chép rằng ‘những điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những kẻ mến yêu Ngài’. Còn chúng ta, chúng ta đã được Thiên Chúa mặc khải cho, nhờ Thần Khí” (1 Cr 2,9-10). Do đó Thánh Linh có bản tính Thiên Chúa.

8/ Những hữu thể cùng làm một công việc thì có cùng bản tính. Thế mà Con và Thánh Linh có cùng công việc. Thánh Phaolô viết cho các tín hữu Côrintô rằng họ đi tìm một bằng chứng về Đức Kitô nói trong ông (x. 2 Cr 3,3). Thế mà công việc ấy cũng thuộc về Thánh Linh, như Chúa Giêsu đã nói: “Không phải là các con nói, nhưng là Thần khí của Cha các con nói trong các con” (Mt 10,20). Do đó bản tính của Thánh Linh cũng giống như bản tính của Con cũng như của Cha, bởi vì chúng tôi đã chứng minh rằng Cha vào Con có cùng bản tính như nhau.

9/ Cư ngụ trong linh hồn các Thánh là đặc điểm của Thiên Chúa, như thánh Phaolô nói: “Chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa hằng sống, như chính Thiên Chúa đã nói: ... Ta sẽ ở trong chúng” (2 Cr 6,16). Thế nhưng thánh Phaolô cũng gán điều ấy cho Thánh Linh: “Anh em không biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần khí của Chúa cư ngụ trong anh em hay sao?” (1 Cr 3,16). Vì thế Thánh Linh là Thiên Chúa.

10/ Hiện diện khắp nơi là một đặc điểm của Thiên Chúa, như Ngài đã quả quyết: “Ta lại không làm cho trời đất đầy tràn hay sao?” (Gr 23,24). Nhưng điều này cũng gán cho Thánh Linh, như sách Khôn ngoan viết: “Thần khí Chúa làm tràn đầy vũ trụ” (Kn 1,7), và Thánh vịnh 139 (7-8) viết: “Đi mãi đâu cho thoát thần trí Ngài, lẩn nơi nào cho khuất được Thánh Nhan? Con có lên trời, Chúa đang ngự đó, nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài.”. Đàng khác, Chúa Giêsu đã hứa với các môn đệ: “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Linh, Đấng sẽ ngự xuống trên các con và các con sẽ làm chứng cho Thầy tại Giêrusalem, trong khắp miền Giuđê và Samari cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Nếu Thánh Linh có thể hiện diện ở mọi nơi và trong mọi người, thì chỉ có thể là Thiên Chúa mà thôi.

11/ Trong Tông đồ công vụ, Thánh Linh được gọi là Thiên Chúa cách rõ ràng, qua lời của thánh Phêrô: “Hỡi Khanania, tại làm sao Satan chiếm hữu trái tim của người khiến ngươi lừa dối Thánh Linh ... Ngươi không lừa dối loài người mà là lừa dối Thiên Chúa” (Cv 5,3-4). Do đó Thánh Linh là Thiên Chúa.

12/ Thánh Tông đồ nói: “Các linh hứng của các ngôn sứ cần được kiểm soát bởi các ngôn sứ, bởi vì Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa gây hỗn độn nhưng là Thiên Chúa tạo bình an” (1 Cr 14,32-33). Thế nhưng các đặc sủng của các ngôn sứ bắt nguồn từ Thánh Linh, như thánh Tông đồ quả quyết: “Có nhiều đặc sủng, mà chỉ có một Thần khí” (1 Cr 12,4). Do đó Thiên Chúa tạo bình an nói trên là Thánh Linh.

13/ Ban cấp sự làm nghĩa tử Thiên Chúa chỉ có thể là công việc của Thiên Chúa. Thật vậy, không có người nào là con Thiên Chúa theo bản tính, mà chỉ do ơn làm nghĩa tử. Vì thế thánh Tông đồ gán công việc ban cho làm nghĩa tử hoặc là cho Con Thiên Chúa (Đấng là Thiên Chúa), hoặc là cho Thánh Linh: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề luật, để chuộc những ai sống dưới Lề luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: Abba, Cha ơi!” (Gl 4,4-6). Vì thế Thánh Linh là Thiên Chúa cũng như Con và cũng như Cha.

Giả như có người nào nói rằng những công việc trên đây của Thiên Chúa được gán cho Thiên Chúa, nhưng không phải như là Thiên Chúa mà chỉ là một tác viên của Thiên Chúa, nghĩa là một thụ tạo đặc biệt, thì cần phải trả lời rằng nói như vậy là sai, bởi vì thánh Phaolô đã nói rõ rằng Thánh Linh là Thiên Chúa. Thánh Linh được kể là Đấng hoàn thành những công việc của Thiên Chúa, chẳng hạn như trong đoạn văn sau đây: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa, có nhiều hoạt động khác nhau nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người” (1 Cr 12,4-6), và ông viết tiếp: “Chính Thần Khí duy nhất làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách khác nhau tùy theo ý của Ngài (1 Cr 12,11).

-- --C. Thánh Linh là một ngôi vị

Lời tuyên xưng “Thánh Linh là một ngôi vị” có ý nghĩa gì?

Có nghĩa là Thánh Linh là một chủ thể hoạt động, chứ không phải là một đặc tính, một ưu phẩm. Thánh Linh là một chủ thể có bản tính Thiên Chúa, tương tự như Cha và Con vậy.

Làm thế nào chứng minh rằng Thánh Linh là một ngôi vị?

Kinh Thánh cho thấy rằng Thánh Linh là một chủ thể tác động trong thế giới, một chủ thể hoạt động có ý muốn tự do.

- Chúng ta biết được rằng Thánh Linh là nguyên nhân của mọi sự hoàn hảo của linh hồn, tựa như đức ái (x. Rm 5,5), đức khôn ngoan, đức thâm hiểu và các đặc sủng (x. 1 Cr 12,8-11). Bởi vì Thánh Linh là nguyên nhân của những sự hoàn hảo ấy, cho nên không thể coi như là một sự hoàn hảo của linh hồn.

- Tin Mừng nói rằng Thánh Linh “xuất phát từ Cha” (Ga 15,26) và “lấy ra từ Con” (x. Ga 16,14). Điều này không thể hiểu về bản tính Thiên Chúa, bởi vì bản tính Thiên Chúa không xuất phát từ Cha cũng không lãnh nhận từ Con; cho nên phải kết luận rằng Thánh Linh là một ngôi vị biệt lập.

- Trong Tông đồ công vụ, Thánh Linh phán dạy. Thánh Linh nói với những người đang cử hành phụng vụ: “Hãy dành riêng cho ta ông Barnabê và ông Saulô vào công việc mà ta đã gọi họ” (13,4); kế đó Luca viết tiếp: “Được Thánh Linh phái đi, hai ông xuống miền Seleucia” (13,4). Thêm vào, các tông đồ khẳng định: “Chúng tôi đã quyết định, Thánh Linh và chúng tôi, rằng không áp đặt một nghĩa vụ nào khác...” (15,28). Nếu Thánh Linh không phải là một ngôi vị thì không thể nói như thế được!

- Nếu Thánh Linh không phải là một ngôi vị Thiên Chúa thì Tân ước sẽ không xếp Ngài ngang hàng với Cha và Con là hai ngôi vị Thiên Chúa. Thế nhưng chúng ta đọc thấy trong Mt 28,19 rằng: “Các con hãy ra đi và dạy dỗ muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”; hoặc trong kết thúc bức thư II gửi Côrintô: “Nguyện xin ân sủng của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, tình yêu của Thiên Chúa và sự hiệp thông của Thánh ở cùng tất cả anh em” (2 Cr 13,13). Các công thức này nói lên ba ngôi vị có cùng một bản tính Thiên Chúa.

1/ Thử tìm hiểu căn tính của Thánh Linh

Kinh Thánh nói rằng Thánh Linh thực sự là Thiên Chúa, là ngôi vị Thiên Chúa khác với Cha và Con. Chúng ta thử tìm cách giải thích mối tương quan giữa Thánh Linh với hai ngôi vi kia.

Như ta đã biết, trong các loài có trí tuệ, thì ngoài trí tuệ ra còn có ý muốn nữa, với các hành vi như là mong ước, vui, yêu, ghét, vân vân. Dù sao, nguồn gốc của tất cả các hành vi của ý muốn là tình yêu. Khi yêu ai hoặc vật gì, thì ta cảm thấy mình bị thu hút bởi đối tượng ấy, ta ước muốn nó khi chưa có, khi đã có thì vui thích, nếu mất thì buồn, và giận ghét những ai hoặc những gì làm ta xa cách nó.

Đối tượng của tình yêu không chỉ ở trong trí tuệ mà còn ở trong ý muốn của người yêu, dưới hai thể thức khác biệt. Trong trí tuệ, đối tượng hiện diện theo như là hình ảnh; còn trong ý muốn, đối tượng hiện diện như là tận điểm của một chuyển động để chiếm hữu nó.

Chúng ta cũng có thể hình dung cách tương tự nơi Thiên Chúa, là một thực thể có trí tuệ cho nên cũng có ý muốn, tuy không phải như cái gì tách biệt khỏi bản tính. Nơi con người chúng ta, có trí tuệ và có hiểu biết, cũng như có ý muốn và tình yêu. Nơi Thiên Chúa cũng tương tự như vậy, tuy rằng sự hiểu biết và tình yêu cũng là một với bản tính của Ngài. Đối tượng của sự hiểu biết và tình yêu nơi Thiên Chúa cũng chính là bản tính của Ngài. Tuy nhiên, khi diễn tả theo tâm thức của con người, ta có thể nói rằng khi hiểu biết thì nảy sinh một “hình ảnh” hoặc “lời” trong trí tuệ Thiên Chúa. Hành vi hiểu biết có thể ví như sự “sinh ra” của lời. Một cách tương tự như vậy, Thiên Chúa yêu mến chính mình. Đối tượng của yêu mến hiện diện ở trong ý muốn; đối tượng tình yêu là chính Thiên Chúa. Hành vi yêu mến có thể ví như “hơi thở”, “sinh khí”. Trong tiếng Latinh, spiritus cùng gốc với spirare (thở), biểu hiện của tính năng động; tình yêu thôi thúc ta tiến đến gặp gỡ đối tượng yêu thương.

Thần học sử dụng những khái niệm rút ra từ kinh nghiệm cuộc sống để giải thích bản chất của Thánh Linh: Ngài là tình yêu giữa Cha và Con; Ngài cũng là tình yêu mà Thiên Chúa trút đổ xuống tâm hồn chúng ta (x. Rm 5,5). Chúng ta sẽ hiểu thêm vai trò của Thánh Linh khi phân tích những hoạt động của Ngài trong vũ trụ nói chung và nơi con người nói riêng.

2/ Những tác động của Thánh Linh trong vũ trụ dựa theo Thánh Kinh

Thánh Linh phát xuất từ tình yêu của Thiên Chúa. Thế mà việc tạo dựng và bảo tồn vạn vật là kết quả của tình yêu Thiên Chúa, cho nên không lạ gì mà Thánh Kinh cũng gán những công việc ấy cho Thánh Linh, chẳng hạn như lời Thánh vịnh 104,30: “Xin phái sinh khí của Ngài đến để làm đổi mới địa cầu”. Ngay từ đầu sách Sáng thế, Kinh Thánh đã mô tả tác động của thần khí Thiên Chúa như “bay lượn trên mặt nước” (St 1,2). Thánh Augustinô giải thích tác động này như là nguyên ủy của mọi chuyển động. Sự chuyển động ở đây không chỉ hiểu về lúc khởi đầu mà còn hiểu về việc nhắm đến cứu cánh. Thánh Thần tình yêu giữ vai trò điều khiển, hướng dẫn, như Thánh vịnh 143,2 viết: “Xin thần khí tốt lành của Chúa dẫn con đi trên miền đất phẳng phiu”. Thánh Linh là tình yêu, là nguồn mạch sự sống, vì thế Chúa Giêsu nói rằng: “Chính thần khí mới ban sự sống (Ga 6,63).

3/ Những tác động của Thánh Linh đối với loài người

Như đã nói trên đây, Tân ước quan niệm Thánh Linh như là tình yêu của Thiên Chúa đổ xuống tâm hồn chúng ta (x. Rm 5,5). Thánh Linh gợi lên trong chúng ta những hình thức khác nhau của tình yêu, cũng được gọi là đức ái, nhờ đó chúng ta yêu mến Thiên Chúa và tha nhân vì Chúa.

Khi nói đến tình yêu của ta đối với Thiên Chúa, thì chúng ta đừng quên rằng Ngài đã yêu chúng ta trước (1 Ga 4,10). Tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta được diễn tả qua các diễn ngữ “cư ngụ, ở lại”. “Anh em không biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thiên Chúa ngự trong anh em hay sao” (1 Cr 3,16). “Nếu ai yêu mến Thầy ... thì Cha yêu họ và chúng tôi sẽ đến nhà họ và cư ngụ nơi họ” (Ga 14,23). Thánh Gioan cũng nói rằng sở dĩ chúng ta biết Thiên Chúa cư ngụ nơi chúng ta là nhờ Thánh Linh đã được ban cho ta (1 Ga 3,24). Cũng nên biết là thánh Gioan nói đến Thiên Chúa cư ngụ nơi chúng ta, và chúng ta cũng cư ngụ nơi Thiên Chúa nữa (1 Ga 4,15).

Một đặc điểm của tình yêu là tỏ lộ bí mật riêng tư cho nhau, như lời Chúa Giêsu đã nói: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa... nhưng là bạn hữu, bởi vì tất cả những gì Thầy đã nghe ở nơi Cha thì Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15). Thế mà Thánh Linh biến chúng ta nên bạn hữu của Thiên Chúa, cho nên nói được là các mầu nhiệm Thiên Chúa được mặc khải nhờ Thánh Linh, như thánh Phaolô đã viết: “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người. Còn chúng ta, chúng ta được Thiên Chúa mặc khải cho, nhờ Thần Khí. Thật vậy, Thần Khí thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa” (1 Cr 2,9-10).

Một đặc điểm nữa của tình bạn là chia sẻ những tài sản cho nhau, lo lắng cho bạn như chính mình. Đó là điều mà thánh Gioan nhắc nhở các tín hữu: bằng chứng của tình yêu Thiên Chúa hiện diện nơi ta là vì ta quan tâm đến nhu cầu của anh em (x. 1 Ga 3,17). Tuy nhiên, trước đó, thánh Phaolô đã nói đến các đặc sủng mà Thánh Linh ban cho các phần tử của Hội Thánh để thực hiện việc xây dựng Thân Thể Đức Kitô. Trong chương 12 của thư thứ nhất gửi Côrintô, thánh Tông đồ đã kể ra một danh sách dài các ân huệ ấy, tất cả bắt nguồn từ Thánh Linh (1 Cr 12,8-11). Ngoài ra, thánh Phaolô còn sử dụng ba thuật ngữ để diễn tả tác động của Thánh Linh trên mỗi người chúng ta nhằm chuẩn bị chúng ta xứng đáng lãnh nhận hạnh phúc vĩnh cửu tức là nếm hưởng Thiên Chúa. “Đấng đã xức dầu cho chúng ta, đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng” (2 Cr 1,21-22) và “Anh em đã được đóng ấn Thánh Thần, Đấng đã được hứa. Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta” (Ep 1,13-14). Xem ra “dấu ấn” muốn nói lên sự biến đổi chúng ta nên giống Đức Kitô; “sự xức dầu” nói đến khả năng thi hành việc lành; “bảo chứng” nói đến niềm hy vọng sẽ đạt đến hạnh phúc.

Cũng trong chiều hướng đó, ta có thể nhắc đến những đoạn văn cho biết chúng ta đã được nhận làm nghĩa tử của Thiên Chúa. Việc nhận làm nghĩa tử là hành vi của tình yêu. Thánh Linh ban cho chúng ta tinh thần con cái để chúng ta thưa lên: Abba Cha ơi! (x. Rm 8,15-16). Dù sao, chúng ta đừng bỏ qua tác động chuẩn bị khởi đầu cho tiến trình trở thành bạn hữu là sự tha thứ tội lỗi: đó là ân huệ đầu tiên mà Chúa Kitô phục sinh đã ban cho các tông đồ: “Hãy nhận lãnh Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì người ấy được tha” (Ga 20,22-23).

4/ Thánh Linh và chuyển động trở về Thiên Chúa

Tiếp nối những tư tưởng vừa nói, Tân ước trình bày những tác động của Thánh Linh nhằm giúp loài người thực hiện ơn gọi của mình, hay nói theo ngôn ngữ thời nay, Thánh Linh là nguyên ủy của “đời sống tâm linh”.

Thánh Linh chuẩn bị cho chúng ta chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa bằng cách làm cho chúng ta trở nên những kẻ chiêm niệm: “Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương; như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí” (2 Cr 3,18). Như đã nói trên đây, Thánh Linh đối xử chúng ta như những bạn hữu. Một đặc tính của tình bạn là chia sẻ niềm vui nỗi buồn. Thánh Linh mang lại niềm vui (x. Rm 14,17), khích lệ (Cv 9,31), an ủi. Danh hiệu Paraclitus có thể dịch là “Đấng An ủi” (Consolator: Ga 14,26).

Về phần chúng ta, vì là bạn hữu và là nghĩa tử, chúng ta yêu mến Thiên Chúa. Tình yêu được biểu lộ qua việc tuân giữ các mệnh lệnh của Chúa, không phải vì sợ hãi hình phạt như nô lệ, nhưng với tinh thần tự do của những người con cái (Rm 8,15). Chúng ta đừng chiều theo những đam mê xác thịt, vì chúng chỉ là những điều thiện giả dối, nhưng hãy đi theo Thánh Linh để làm nảy sinh những hoa trái Thánh Linh, được thánh Phaolô kể ra ở chương 5 của thư gửi Galat: “Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn, thì anh em không còn lệ thuộc Lề Luật nữa. Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy. Tôi bảo trước cho mà biết, như tôi đã từng bảo: những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa. Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế. Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê. Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước” (Gl 5,18-25).

-- --D. Thánh Linh phát xuất từ Cha và Con

Thần học diễn tả tương quan giữa Cha và Con qua thuật ngữ “sinh ra”: Cha sinh ra Con. Ở đây, sự sinh ra không hiểu theo nghĩa thể lý nhưng theo nghĩa tinh thần, ám chỉ sự hiểu biết: khi ta nghĩ điều gì, thì trong đầu nảy sinh một ý tưởng. Ta có thể nói một cách tương tự như vậy về Con Thiên Chúa. Do việc Cha hiểu biết về chính mình, nảy sinh ra Lời. Lời có cùng bản tính Thiên Chúa với Cha và hiện hữu từ muôn đời như Cha.

Để giải thích tương quan giữa Cha với Thánh Linh, các giáo phụ sử dụng thuật ngữ “phát xuất” (procedit), lấy từ đoạn văn Tin Mừng Gioan 15,16 (Người là Thần khí sự thật phát xuất từ Cha). Điều này được đưa vào tín biểu Constantinôpôlis I (năm 381). Thế nhưng bên Tây phương, các công đồng Toledo (Tây ban nha) thế kỷ VII, do ảnh hưởng của thánh Augustinô, đã thêm vào “phát xuất từ Cha và Con” (procedit a Patre Filioque). Về sau, khoảng năm 1014, Đức Giáo hoàng Bênêđictô VIII đã thêm đoạn vào kinh Tin kính đọc trong Thánh Lễ. Điều này đã gây phản ứng bên các Giáo hội Đông phương, và trở nên một nguyên nhân đưa đến sự chia ly giữa Rôma và Constantinôpôlis năm 1054. Từ đó, đề tài này trở thành một đề tài tranh luận giữa Công giáo và Tin Lành.

Nhờ những cuộc nghiên cứu lịch sử gần đây cũng như nhờ những đối thoại đại kết, chúng ta hiểu rõ hơn nguồn gốc của cuộc tranh cãi. Vào thế kỷ XIII, có lẽ thánh Tôma nhận được thông tin về phía Tây phương nhiều hơn là về phía Đông phương. Không lạ gì mà ngài bênh vực luận đề của Tây phương đã được du nhập vào kinh Tin kính: “Thánh Linh phát xuất từ Cha và Con”, và ngài tìm những luận cứ để bênh vực lập trường ấy, chẳng hạn như

- Những đoạn văn nói đến “Thần Khí của Đức Kitô” (x. Rm 8,9), “Thần Khí của Con” (Gl 4,6). Điều này muốn nói rằng Thần Khí phát xuất từ Con.

- Thần Khí không những được Cha sai đến các môn đệ, mà Thần Khí cũng được Con sai đến nữa (Ga 15,26). Như vậy hiểu rằng Thần Khí cũng phát xuất từ Con.

- Thần Khí sẽ lấy từ Cha và từ Con để loan báo cho các môn đệ (Ga 16,14-15).

Dù sao đi nữa, khi khẳng định rằng “Thánh Linh phát xuất từ Cha (và Con)”, thì chúng ta đừng nghĩ rằng Thánh Linh hiện hữu sau Cha (và Con), hoặc ở vị trí dưới Cha (và Con). Không phải như vậy: cả ba ngôi vị đều có cùng bản tính Thiên Chúa, cùng hiện hữu từ muôn thuở, không ai có trước có sau, đứng trên đứng dưới. Tuy vậy, thần học cố gắng diễn tả sự khác biệt của tương quan giữa Tam vị như sau:

 - Tương quan giữa Cha và Con dựa trên sự “sinh ra”, nghĩa là qua việc hiểu biết của trí tuệ: Cha “sinh ra” Lời.

 - Tương quan giữa Cha và Thánh Linh dựa trên “tình yêu”, nghĩa là qua hành vi của ý muốn. Thần học Tây phương quan niệm Thánh Linh như là kết quả của tình yêu giữa Cha và Con. Thánh Linh tạo ra sự hiệp thông giữa Tam Vị.

Cũng nên biết là bên Đông phương, thần học chỉ nói đến một sự phát xuất của Thánh Linh, còn bên Tây phương, người ta nói đến hai sự phát xuất, bởi vì áp dụng cho cả việc Con được sinh ra từ Cha nữa, dựa trên bản dịch Vulgata của đoạn văn Ga 8,42: “Ego enim ex Deo processi et veni”.

III. Một Thiên Chúa trong ba ngôi vị

Sau khi đã lần lượt trình bày “Lời là Thiên Chúa” và “Thánh Linh là Thiên Chúa”, thánh Tôma kết thúc mục này với việc tuyên xưng đức tin Công giáo rằng: chỉ có một Thiên Chúa là Cha – Con – Thánh Linh, chứ không phải là ba Chúa. Sự phân biệt giữa ba ngôi dựa những tương quan khác nhau giữa các vị:

- Giữa Cha và Con, dựa trên sự “sinh ra”, từ đó có tương quan “phụ hệ” (paternitas) và “tử hệ” (filiatio).

- Giữa Cha-Con và, dựa trên sự “phát xuất tình yêu”, từ đó có tương quan “nhiệm xuy” (spiratio: thở ra, do động từ spirare và danh từ spiritus), tức là “thở ra tình yêu”.

Đức tin Công giáo tuyên xưng một Thiên Chúa ba ngôi. Nhưng thần học muốn đi xa hơn nữa, khi nhấn mạnh rằng “Thiên Chúa chỉ có ba ngôi” (chứ không thể hơn nữa). Tại sao vậy? Thưa rằng đây là một dữ kiện của mặc khải, nhưng có thể giải thích phần nào dựa theo các điều đã trình bày trước đây. Như một Hữu thể có trí tuệ, Thiên Chúa chỉ có một hành động hiểu biết và một hành động yêu mến; cả hai hành động này đều mang tính cách hằng hữu vô biên, cho nên không thể có thêm một hành động nào khác nữa. Cha không thể “nghĩ ra” một tư tưởng nào khác ngoài Lời duy nhất, cũng như không thể có một “tình yêu” nào khác nữa. Đó là xét trong đời sống nội tại của Thiên Chúa. Khi xét đến hoạt động bên ngoài, Thiên Chúa sẽ còn “nói” những lời khác qua việc tạo dựng, và “yêu” các loài mà Ngài đã dựng nên.