Skip to content
Banner 10.2024
Ngôn ngữ

Đàm đạo về “Summa Contra Gentiles” của thánh Tôma Aquinô - Kỳ XVII

Văn phòng Học Viện
2025-12-02 15:39 UTC+7 18
Tác phẩm "ĐÀM ĐẠO VỀ SUMMA CONTRA GENTILES CỦA THÁNH TÔMA AQUINÔ", của Linh mục Giuse Phan Tấn Thành, OP., là lời giới thiệu và tóm tắt về bộ Summa Contra Gentiles – bộ tổng luận quan trọng nhưng ít được biết đến của thánh Tôma Aquinô. Học viện Thần học Đa Minh đã giới thiệu cuốn sách này trước đây. Tác giả và Học viện Thần học Đa Minh tiếp tục đăng nội dung của cuốn sách, theo từng kỳ tương ứng với các mục trong bố cục tác phẩm, nhằm phục vụ nhu cầu của độc giả được rộng rãi hơn.

Đàm đạo về “Summa Contra Gentiles”

của thánh Tôma Aquinô

(1225-1274)

*****

Kỳ XVII

Mục 14. Sự quan phòng đối với loài người (phần 3)

Cho đến nay chúng ta đã thấy trong luật Chúa có những điều truyền và những điều khuyên. Phải chăng điều này hiểu ngậm rằng không phải tất cả mọi điều tốt đều ngang nhau (làm điều khuyên thì tốt hơn) cũng như không phải tất cả mọi điều xấu đều ngang nhau. Có đúng vậy không?

Đúng như vậy. Bản chất của các hành vi được xét theo đối tượng và mục đích.

- Về các hành vi tốt, thì điều gì đưa chúng ta đến gần mục đích tối hậu thì tốt hơn các hành vi khác. Xét theo đối tượng, các hành vi phát xuất từ lý trí thì cao hơn các hành vi phát xuất từ các quan năng dưới sự điều khiển của lý trí. Việc gì được thi hành do đức mến (lời khuyên) thì tốt hơn việc do các nhân đức khác (lời truyền).

- Về các hành vi xấu cũng vậy. Điều gì làm ta đánh mất mục tiêu của cuộc đời thì nặng hơn những điều lệch lạc trong các phương tiện. Từ đó, có sự phân biệt giữa “tội trọng” (tiếng Latinh, peccatum mortale có nghĩa là tội đưa đến sự chết) và “tội nhẹ”, tùy theo việc đánh mất mục tiêu là Thiên Chúa hay không.

Hệ quả của việc lành hay việc dữ là phần thưởng hay hình phạt: Chúa thưởng người lành và phạt kẻ dữ. Đúng không?

Đúng thế. Chúng ta đọc thấy điều này trong nhiều trang Kinh Thánh Cựu ước và Tân ước, chẳng hạn như lời sau đây của thánh Phaolô: “Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tuỳ theo việc họ làm; những ai bền chí làm việc thiện mà tìm vinh quang, danh dự và phúc trường sinh bất tử, thì Thiên Chúa sẽ cho họ được sống đời đời ; còn những ai chống Thiên Chúa mà không vâng phục chân lý và chạy theo điều ác, thì Người sẽ nổi trận lôi đình, trút cơn thịnh nộ xuống đầu họ” (Rm 2,6-8). Theo lối suy tư dựa trên kinh nghiệm đời này, chúng ta cũng có thể nói đến những cấp độ phần thưởng và hình phạt.

- Xét về phần thưởng: chính yếu là hạnh phúc, nghĩa là Thiên Chúa; rồi đến những phương thế giúp đạt đến hạnh phúc đó là: các nhân đức; trật tự lý trí; trật tự của các quan năng dưới sự chỉ đạo của lý trí; sức khỏe thể xác; sau cùng là các sự tốt lành khác để thi hành các nhân đức.

- Xét về hình phạt: chính yếu là mất hạnh phúc; rồi đến mất các nhân đức, mất các quan năng tự nhiên của linh hồn; thân xác bị hành hạ, mất các sự tốt lành bên ngoài.

Nhưng đó là hệ trật các giá trị xét về mặt khách quan, chứ trên thực tế đâu phải mọi người đều nghĩ như vậy?

Đúng thế. Ở trên đời này, chúng ta bị thu hút bởi những chuyện hữu hình hơn là bởi những chuyện vô hình. Đối với nhiều người, sự mất Chúa không quan trọng bằng mất tài sản hay sức khỏe. Không lạ gì mà đọc Thánh Vịnh, ta thấy kể lại những lời trách móc Chúa bởi vì những kẻ gian phi được thịnh vượng, còn những tôi trung phục vụ Chúa thì gặp nhiều xui xẻo! Cần có một đức tin mạnh mẽ mới có thể nhận ra giá trị đích thực của các sự vật, cái gì là cốt yếu và cái gì là thứ yếu. Ở trên đời này, đôi khi sự mất mát tài sản hoặc sức khỏe được Chúa cho xảy ra để thanh luyện nhân đức, giúp ta gắn bó hơn với những điều thiện vĩnh cửu. Dù sao, phần thưởng hay hình phạt ở đời này chỉ có tính cách tương đối và tạm bợ. Phần thưởng vĩnh cửu sẽ được ban ở đời sau, nơi mà chính Thiên Chúa mới là hạnh phúc đích thực và bền vững. Đối lại, hình phạt nặng nhất là xa lìa khỏi Thiên Chúa.

Chúa ban cho con người lề luật nhằm hướng con người đến hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng liệu con người tự sức mình có thể đạt đến hạnh phúc không?

Khác với loài động vật, con người khi làm việc gì đều nhắm đến mục đích, bởi thế nó cần hiểu biết trước khi quyết định hành động. Thiên Chúa đã dựng nên bản tính con người như thế, và Ngài đã ban cho con người trí tuệ để hiểu biết sự thật, cũng như những quan năng giác quan để góp phần vào việc tìm hiểu sự thật; Ngài cũng ban ngôn ngữ để con người trao đổi cho tha nhân sự thật mình đã khám phá, cũng như giúp nhau trên con đường hướng về cùng đích cuộc đời. Hơn thế nữa, Thiên Chúa còn muốn dẫn con người đến hạnh phúc vĩnh cửu, hệ tại hiểu biết và yêu mến Chúa và hưởng kiến nhan Chúa. Điều này vượt quá khả năng tự nhiên của con người, vì thế Thiên Chúa đến trợ giúp con người để đạt đến mục tiêu. Theo thánh Tôma, Thiên Chúa dùng luật pháp để chỉ dẫn cho con người biết lối đến hạnh phúc, đồng thời Ngài ban ơn trợ giúp ngõ hầu con người có thể đạt đến mục tiêu ấy[1]. Điều này được Tân ước nói đến nhiều lần, chẳng hạn như: “Không ai đến được với Thầy, nếu không được Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy, lôi kéo” (Ga 6,44), hoặc; “Cũng như cành nho tự mình không thể sinh hoa trái nếu ở trong cây nho, thì các con cũng vậy nếu không ở lại trong Thầy” (Ga 15,4). Trong lịch sử thần học, ông Pelagiô vì muốn nhấn mạnh đến nỗ lực tu đức của con người, cho nên chủ trương rằng con người có thể đạt được vinh quang Thiên Chúa nhờ sự tự do của mình. Luận đề của ông đã bị Giáo Hội phi bác (xem sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 406).

Ơn Chúa được ban cho con người để làm điều tốt; như vậy có làm cho con người mất tự do không?

Thoạt tiên xem ra ơn Chúa thúc đẩy con người hướng đến điều thiện, vì thế làm cho con người mất tự do. Sự thật không phải như thế. Ơn Chúa không cưỡng bách con người hành động; con người vẫn còn tự do hoạt động mà. Chúng ta đừng quan niệm tác động của Thiên Chúa trên các thụ tạo như là hai tác nhân ngang hàng với nhau. Không phải như vậy. Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất, và Ngài can thiệp vào tất cả các hành động của chúng ta. Nếu không có sự can thiệp ấy thì ta không làm được gì hết. Tuy nhiên, Thiên Chúa can thiệp vào thụ tạo tùy theo bản tính của chúng: đối với loài vô tri vô giác, không có tự do thì Ngài can thiệp một cách khác; còn đối với loài người có tự do thì Ngài can thiệp một cách khác. Ta có thể lấy một thí dụ để minh họa. Cây bút tự nó không viết được, cần phải có người cầm bút. Nhưng người cầm bút viết chữ đẹp hay chữ xấu phần nào cũng tùy theo phẩm chất của cái bút cũng như màu được sử dụng. Thánh Phaolô viết: “Chính Thiên Chúa gợi lên nơi anh em ý muốn và hoạt động theo chương trình yêu thương của Ngài” (Pl 2,13). Thiên Chúa gợi lên chứ không cưỡng bách hành động của chúng ta. Chúng ta vẫn giữ quyền lựa chọn. Nói cho đúng, nếu ta chọn điều tốt thì dù thế nào đi nữa vẫn thích hợp với bản tính chúng ta là hướng về điều tốt; còn khi chọn điều xấu thì nói được là trái ngược với bản tính của mình, bởi vì nó dẫn đến cái chết.

Chúng ta có công trạng gì để đòi hỏi Thiên Chúa giúp đỡ chúng ta không?

Không. Chúng ta là thụ tạo, nghĩa là cấp dưới chứ không phải là cấp trên có khả năng thúc đẩy Thiên Chúa. Chúng ta làm điều tốt vì nhờ ơn Chúa giúp sức; nếu không có ơn Chúa giúp thì chúng ta không thể làm việc tốt được; vì thế không thể nói được là công việc tốt của chúng ta có thể thúc đẩy Chúa giúp đỡ. Chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu: “Nếu không có Thầy, các con chẳng làm gì được” (Ga 15,5).

Ơn huệ với ân sủng có gì khác nhau không?

Xét theo bản chất thì chẳng có gì khác nhau. Sự khác nhau do từ ngữ được đặt ra để phân biệt nhiều loại ơn. Nên biết là “ơn” là tiếng Việt, còn “ân” là tiếng Hán. Trong tiếng Việt, từ “ơn” thường còn đi kèm nhiều từ khác: ơn nghĩa, ơn huệ, ơn phúc. Ơn là cái gì được ban do lòng quảng đại, yêu thương, chứ không phải do nghĩa vụ (nếu ta trả một món nợ thì không phải là làm ơn nữa rồi). Trong các sách thần học, chúng ta thường nghe nói đến “ân sủng”, bao gồm ý nghĩa “ơn huệ” và “yêu thương” (sủng là yêu mến). Đây là một danh từ chuyên môn để chuyển dịch từ gratia trong tiếng Latinh (tiếng Pháp: grâce; tiếng Anh: grace). Thật ra trong tiếng Latinh còn có từ donum (tiếng Pháp là don, tiếng Anh là gift), để ám chỉ cái gì được cho (donare, donner, to give) thường được dịch là “quà tặng, hồng ân”; còn gratia, ngoài ý tưởng “cho không” (gratis) còn hàm ý “ưu ái” (gratiosus). Vì thế dịch gratia là “ân sủng” là khá sát ý, bởi vì vừa nói lên một sự ban cho, vừa gói ghém ý tưởng ưu ái. Ngoài ra, nó cũng gợi ý là nó làm cho chúng ta trở nên “đáng yêu” trước mặt Chúa.

Đó mới chỉ là khái quát. Khi đi sâu vào chi tiết, thần học phân chia nhiều loại ơn huệ hoặc ân sủng. Ta có thể lấy một thí dụ từ các tác phẩm của thánh Tôma. Tác giả nói đến 7 “ân huệ Thánh Linh” (dona Spiritus Sancti), “ân sủng” làm đẹp lòng Chúa (gratia gratum faciens), “đoàn sủng” gratia gratis data). Bản chất của những ân huệ này sẽ được thánh nhân bàn kỹ hơn trong sách Tổng luận Thần học. Ở đây, chúng ta chỉ ghi nhận vài ý tưởng đại cương.

Ý tưởng là trước hết, chúng ta được đẹp lòng Chúa phải không?

Đúng thế, tự nó “ân huệ” nói lên sự trợ giúp của Thiên Chúa giúp cho chúng ta thi hành các việc lành và nhờ đó chúng ta đạt tới mục tiêu cuộc đời là được kết hợp với Ngài. Tính cách “ân huệ” nằm ở chỗ hạnh phúc mà chúng ta nhắm đến vượt quá khả năng của loài thụ tạo: thử hỏi làm thế nào ta có thể kết hợp với Thiên Chúa, chiêm ngưỡng dung nhan Ngài, thông dự vào bản tính của Ngài? Chúng ta cần được Ngài “thúc đẩy và “lôi kéo” (Ga 6,44.65) để đến với Ngài.

Có cách nào diễn tả cụ thể bản chất của ân sủng không?

Có thể tìm thấy trong Kinh Thánh vài thuật ngữ diễn tả bản chất, hay đúng hơn, hiệu quả của ân sủng ấy, đặt trong khung cảnh của việc Thiên Chúa dẫn con người đến với Ngài, chẳng hạn như “ánh sáng”. Thánh Phaolô viết: “Nếu trước đây, anh em ở trong tối tăm, thì bây giờ anh em là ánh sáng trong Chúa. Anh em hãy cư xử như là con cái của ánh sáng” (Ep 5,8). Ân sủng được gọi là “ánh sáng” vì là nguyên ủy của phúc kiến: nhờ ân huệ đó chúng ta được dẫn dắt tới hạnh phúc, tức là nhìn thấy Chúa. Một tư tưởng khác cũng nằm trong chiều hướng ấy là “tình yêu”: Nhờ ân sủng, chúng ta được đẹp lòng Chúa, được Chúa yêu thương. Thánh Phaolô đã viết: “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào tâm hồn chúng ta, nhờ Thánh Linh mà Ngài ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Chúa đổ tình yêu của Ngài vào tâm hồn chúng ta, nhờ đó chúng ta có khả năng yêu mến Ngài. Ngoài ra, hạnh phúc con người là được nhìn thấy Thiên Chúa diện đối diện. Điều này sẽ được thực hiện mai sau; hiện thời chúng ta tiếp xúc với Thiên Chúa nhờ đức tin và đức hy vọng. Đức tin giúp chúng ta hiểu biết Chúa. Thánh Phaolô trong các thư gửi Rôma và Galat, khi đối chiếu hai chế độ Cựu ước và Tân ước, thì ra như tập trung ơn huệ của Tân ước vào đức tin: đức tin làm cho chúng ta được nên công chính và đẹp lòng Chúa. Nhờ đức tin, chúng ta nhìn nhận Chúa là chủ tể và suy phục Ngài. “Không có đức tin thì không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa được”, tác giả thư Hip-ri đã viết như vậy (Hr 11,5). Nhưng đức tin cũng là một hồng ân Chúa ban, như thánh Phaolô nói (Ep 2,8). Đức tin cũng gắn với niềm hy vọng. Nhờ đức tin, chúng ta biết được cứu cánh mà Thiên Chúa dành cho loài người, nhưng chúng ta cũng cần hy vọng rằng điều ấy có thể đạt được nhờ ơn Chúa. Chúng ta đọc trong thư thứ nhất của thánh Phêrô: “Do lượng hải hà, Thiên Chúa Cha đã cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, để được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục tàn phai” (1 Pr 1,3-4). Những điều vừa nói thường được thần học xếp vào loại ơn “thánh sủng”, nghĩa là những ơn làm cho chúng ta nên thánh. Bên cạnh đó, thần học còn nói đến các “ân huệ của Thánh Linh”, và các “đặc sủng”.

Ân huệ Thánh Linh là gì?

Thuật ngữ “các ân huệ Thánh Linh” bắt nguồn từ bản văn của ngôn sứ Isaia 11,1-3: “Từ gốc tổ Giesê sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần khí Giavê sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Giavê. Lòng kính sợ Giavê làm cho Người hứng thú”. Thánh Luca thuật lại vào lúc khởi đầu cuộc đời công khai, vào một ngày sabát trong hội đường Nazareth, Đức Giêsu lên tiếng và đọc đoạn văn Isaia “Thần khí Chúa ngự xuống trên tôi” (Is 61,11-12) như là tóm lược đoạn văn Isaia11,1-3. Truyền thống đặt tên cho thần khí khôn ngoan, minh mẫn,…là các ân huệ Thánh Linh, nhằm nêu bật động lực của Thánh Linh. Dĩ nhiên, chúng ta lãnh trách nhiệm về điều mình làm, nhưng chúng ta xin Chúa đẩy mạnh chúng ta. Trong truyền thống thần học, cách riêng từ quyển Moralia (I, c. 12) của thánh Grêgoriô Cả, các ân huệ này được xem như chóp đỉnh của các nhân đức phú bẩm.

Các ân huệ khác các nhân đức ở chỗ nào?

Các nhân đức cũng như các ân huệ đều kiện toàn con người để làm điều tốt. Để xác định đâu là đặc trưng của ân huệ, chúng phải theo dõi lối nói của Kinh Thánh như là các thần khí, chẳng hạn thần khí khôn ngoan, thần khí hiểu biết, vv. Các ân huệ ở trong chúng ta do một linh ứng, nghĩa là một sự thúc đẩy đến từ bên ngoài. Có hai nguyên ủy thúc đẩy chúng ta: lý trí từ bên trong, và Thiên Chúa từ bên ngoài. Để tiếp nhận sự thúc đẩy bên ngoài, cần có sự chuẩn bị xứng đáng. Các nhân đức nhân bản kiện toàn chúng ta liên quan đến các hành vi do lý trí truyền khiến, nhưng để đón nhận sự thúc đẩy đặc biệt của Thiên Chúa, chúng ta cần có sự chuẩn bị đặc biệt, gọi là các ân huệ. Thánh Tôma giải thích rằng để đạt tới cứu cánh siêu nhiên, các nhân đức thiên phú không định hướng cho chúng ta đến độ không cần đến sự thúc đẩy đặc biệt của Thánh Linh. Trong Thánh vịnh 142,10, chúng ta đọc thấy rằng: “Thần khí tốt lành của Chúa dẫn con đi trên miền đất phẳng phiu”, nghĩa là đến đích điểm trên trời. Các ân huệ là những chuẩn bị hoặc tập quán nhờ đó con người mau mắn tuân theo Thánh Linh. Trong tất cả các quan năng của chúng ta, nghĩa là các nguyên ủy hành động, cũng có các ân huệ, chẳng hạn như ơn khôn ngoan (cao minh) ở trong lý trí thuần lý, ơn hiểu biết trong lý trí thực tiễn, còn trong các cảm xúc, ơn sùng hiếu xét trong tương quan với tha nhân, ơn hùng mạnh liên quan đến bản thân của chúng ta, và ơn kính sợ liên quan đến những tham dục. Ba nhân đức hướng Chúa đưa chúng ta đến kết hiệp với Thiên Chúa và vì thế chúng được coi là tiền đề để lãnh nhận các ân huệ, tựa như là cội rễ của chúng. Các ân huệ có liên hệ với nhau nhờ đức mến. Ai có đức mến thì cũng sở hữu các ân huệ.

Các đặc sủng là gì?

Các ân huệ Thánh Linh vừa nói trên là món quà giúp cho các nhân đức được vận hành với một cách mới mẻ. Đó là một cách thức vận hành vượt quá điều chúng ta có thể làm nhờ sức riêng của mình. Tuy nhiên, hành động dựa theo các ân huệ Thánh Linh còn nằm trong bình diện sinh hoạt bình thường và không phát sinh những hoạt động lạ thường. Chẳng hạn như ơn thâm hiểu cho chúng ta hiểu biết đức tin cách sâu xa hơn, nhưng không ban cho ta một sự mặc khải mới của Chúa. Bên cạnh các ân huệ vừa kể, còn có những ơn đặc biệt được gọi là “đặc sủng” (charisma). Đó là những ơn ban đặc biệt cho phép một vài Kitô hữu làm được điều khác thường, chẳng hạn như chữa bệnh, tiên báo tương lai, nói ngôn ngữ mới lạ. Thánh Tôma bàn đến những ơn này dưới tên gọi gratiae gratis datae (ơn huệ ban không), và phân chia làm ba nhóm: một là để biết (mặc khải), hai là để nói (công bố), ba là để làm (chứng minh).

a) Loại thứ nhất được gọi là mặc khải, tức là ánh sáng trong tâm trí. Trong loại này có thể kể đến ơn ngôn sứ, là một thứ tri thức được Thiên Chúa ban cho trí tuệ của ngôn sứ, như là một thứ giáo huấn. Ơn mặc khải có thể mang ba hình thức: (i) lời dạy (x. 1 Cr 12,8), hay nói tiên tri (x. 1 Cr 12,10); (ii) xuất thần (x. 2 Cr 12,2-4), qua đó con người được Thần khí Chúa đưa lên các thực tại siêu nhiên, thoát ra khỏi giác quan, giống như thị kiến mà ông Edêkiel đã kể lại (Ed 8,3); (iii) phân định thần khí, nghĩa là khả năng phân biệt các thần khí khác nhau, để nhận ra tinh thần nào thúc đẩy một người nào nói hoặc làm điều gì (có phải là tinh thần bác ái, hay là ghen tương).

b) Loại thứ hai bao gồm những ơn thuộc lãnh vực công bố. Thật vậy, khi Thiên Chúa mặc khải cho người nào thì không chỉ nhằm soi sáng cá nhân họ, nhưng còn nhằm soi sáng những người khác, nhờ việc giảng dạy. Vì thế, cần phải có ơn “ngôn ngữ” (nói). Trong loại này, có thể kể đến ơn nói tiếng nước ngoài (xenoglossia), nghĩa là nói được ngôn ngữ của thính giả cho họ hiểu; điều này khác với ơn “glossolalia” được nói đến ở 1 Cr 14,14 (ơn nói tiếng lạ trong buổi cầu nguyện, và cần đến người giải thích). Cũng có thể kể vào loại này ơn giải thích những giấc mơ như trường hợp của ông Giuse (St 40,8) và Đaniel (Đn 5,16).

 c) Loại thứ ba gồm những ơn để minh chứng rằng lời giảng thuyết đến từ Thiên Chúa. Điều này được thực hiện qua các phép lạ, tựa như chữa bệnh. Những ơn này không những thúc đẩy người nghe chấp nhận lời giảng vì nhận ra nguồn gốc siêu nhiên của việc làm, nhưng cũng có thể giúp cho người nghe được củng cố thêm trong đức tin.

Chúng ta cần đến ân sủng để có thể đạt tới cứu cánh vĩnh cửu và được đẹp lòng Chúa. Chúng ta cần ân sủng cho đến bao giờ?

Chúng ta cần đến ân sủng để hướng dẫn chúng ta đến điều thiện, và chúng ta cần đến ân sủng để kiên trì trong điều thiện. Lý do là vì ý chí con người hay thay đổi, cho nên để kiên trì theo đuổi một mục đích vượt quá khả năng, chúng ta cần sự nâng đỡ của ơn Chúa. Kinh Thánh nhiều lần nhắc đến điều này: “Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đến chỗ hoàn thành” (Pl 1,6). Và thánh Phaolô cầu nguyện: “Xin chính Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, và xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta và đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp, xin các Ngài an ủi và cho tâm hồn anh em được vững mạnh, để làm và nói tất cả những gì tốt lành” (2 Tx 2,16-17).

Nếu chúng ta mất ân sủng vì phạm tội thì có cách nào khôi phục lại được không?

Được chứ. Chúng ta có thể xin Chúa tha thứ lỗi lầm, như chính Ngài đã dạy chúng ta trong kinh Lạy Cha. Về phía chúng ta, điều cần thiết là chúng ta trở về với Chúa, hối hận về tội lỗi, nghĩa là dứt bỏ hành vi xấu xa và dốc lòng không tái phạm, cũng như sẵn sàng tìm cách tái lập trật tự đã bị làm xáo trộn. Dù sao, cần phải nhìn nhận, việc trở về với Chúa cũng là nhờ ơn có ân sủng[2].

Nói thế có nghĩa là nếu không có ân sủng thì người ta không thể trở về với Chúa được. Như vậy, những người không trở lại với Chúa là tại vì thiếu ân sủng chứ đâu phải lỗi tại họ?

Quả là một mầu nhiệm. Nếu không có ân sủng thì chúng ta không thể thực hành các nhân đức. Phải chăng từ đó ta có thể kết luận rằng: kẻ không thực hành các nhân đức là tại vì Chúa không ban ân sủng? Tuy nhiên, đừng quên rằng con người cũng có thể khước từ ân sủng, hoặc ngăn cản tác động của ân sủng. Về phía Thiên Chúa, thánh Phaolô đã nói rằng: “Chúa muốn cho tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết sự thật” (1Tm 2,4). Nhưng về phía con người, họ có thể khước từ ơn Chúa. Ta có thể ví như mặt trời vẫn chiếu sáng mọi vật, nhưng kẻ đã khép chặt tất cả các cửa thì ánh sáng đâu có thể lọt vào phòng được? Chúng ta có thể làm ngăn cản tác động của ân sủng bằng nhiều cách, chẳng hạn như chúng ta quay lưng lại với Chúa, và lựa chọn một điều khác làm mục đích cuộc đời, hoặc là khi chúng ta để cho mình bị lôi cuốn theo đam mê dục vọng đến nỗi không còn phân biệt điều nào là tốt điều nào là xấu nữa (tựa như người say rượu đã mất phán đoán).

Tại sao có tội nhân hoán cải trở về với Chúa, có người khác thì không trở lại. Phải chăng tại vì có người được Chúa yêu thương cho nên ban ơn hối cải, còn người khác thì không được Chúa thương?

Thật không dễ gì trả lời. Nên biết là không chỉ có những người phạm tội và sau đó được ơn hối cải, nhưng còn có những người được ngăn ngừa để khỏi phạm tội. Tất cả đều thuộc về kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa mà ta không thể hiểu nổi. Chúng ta có thể lấy một thí dụ khác từ cuộc đời dương thế của Đức Giêsu. Vào thời ấy, có biết bao nhiêu người đui mù, bất toại... nhưng Chúa chỉ chữa lành một số bệnh nhân chứ không chữa lành tất cả. Thánh Phaolô cũng đã có lần nêu thắc mắc và thú nhận không trả lời được: “Hỡi người, bạn là ai mà dám cãi lại Thiên Chúa? Chẳng lẽ sản phẩm lại nói với người sản xuất: Sao ông làm tôi thế này? Phải chăng ông thợ gốm không có quyền dùng đất sét theo ý mình: từ cũng một nắm đất mà nắn ra đồ vật khác nhau, cái thì dùng vào việc cao quý, cái thì dùng vào việc thấp hèn” (Rm 9,20-21). Chúng ta không thể hiểu nổi đường lối của Chúa, mà chỉ biết tín thác vào tình yêu của Ngài mà thôi. Thánh Phaolô khẳng định rằng từ muôn thuở, Chúa Cha chọn ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, đã tiền định cho ta nên nghĩa tử: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu” (Ep 1,3-4). Sau cùng, chúng ta được mời gọi cũng chúc tụng Thiên Chúa như thánh Phaolô: “Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Đường lối của Người, ai theo dõi được! Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa? Ai đã làm cố vấn cho Người? Ai đã cho Người trước, để Người phải trả lại sau? Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời! A-men” (Rm 11,33-36).

Đến đây kết thúc quyển Ba của Sách “Tổng luận chống lại chư dân”, hoặc phần thứ nhất của tác phẩm, bàn về những chân lý mà lý trí có thể khám phá. Trong quyển Bốn, thánh Tôma sẽ bàn về những chân lý mà chúng ta chỉ có thể biết được nhờ mặc khải.



[1] Ơn trợ giúp hay ơn thánh còn dược gọi là “ân sủng” (gratia) được bàn ở CG III,147-163.

[2] Việc tha thứ tội lỗi được thực hiện nhờ bí tích Tha, sẽ nói trong quyển Bốn (xem mục 17 dưới đây).