Skip to content
Banner 10.2024
Ngôn ngữ

Những bài giảng của Thánh Tôma Aquinô trong năm phụng vụ - Mùa Vọng - Bài 7

Văn phòng Học Viện
2025-12-18 08:09 UTC+7 213
Tuy ít được biết đến, một vài văn khố còn lưu giữ các bài giảng của thánh Tôma dọc theo năm phụng vụ. Người ta còn giữ được hai bộ sưu tập: một bằng tiếng Latin và một bằng tiếng Anh. Đây là bản dịch Việt ngữ do 2 tu sĩ Micae Lê Bá Thạch, OP và Phêrô Lê Văn Cao, OP, từ bản tiếng Anh "Ninety-Nine Homilies of S. Thomas Aquinas upon the Epistles and Gospels for Forty-Nine Sundays of the Christian Year", do linh mục John Mark Ashley (1828-1909) chuyển ngữ từ bản Latin và xuất bản tại London (1867).

BÀI GIẢNG THỨ BẢY : ÂN SỦNG NGỰ ĐẾN

(hay : Những thứ xiềng xích)

“Ông Gioan lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Kitô làm, thì sai hai môn đệ đến với Người và hỏi: Ông có phải là Đấng sẽ đến, hay chúng tôi phải chờ người khác?” (Mt 11,2-4).

Trong bài Tin Mừng lần trước, chúng ta đã luận bàn về Công lý ngự đến, còn làn này chúng ta bàn đến Ân Sủng ngự đến. Ở đây có nhắc đến Thánh Gioan Tẩy Giả, người mà tên được hiểu là ‘Ân sủng của Thiên Chúa’; hoặc cũng có thể hiểu là: người nơi đó ân sủng của Thiên Chúa hiện diện. Bốn điều được nói đến ở đây liên quan đến Thánh Gioan: (1) việc ông bị giam tù; (2) câu hỏi về Cuộc Quang Lâm của Đức Kitô, do các môn đệ mà ông đã sai đến; (3) lời đáp của Chúa; (4) nhiều lời ca ngợi dành cho Gioan.

Ông được ca ngợi chủ yếu vì bốn điều: (1) sự kiên vững mạnh mẽ; (2) sự khổ hạnh nghiêm nhặt trong y phục; (3) phẩm giá cao cả nơi sứ vụ; (4) sự thánh thiện trong đời sống. Thứ nhất, “khi ông Gioan đã nghe tin”; thứ hai, “Ông có phải là?”; thứ ba, “Hãy về và thuật lại cho ông Gioan,” v.v.; thứ bốn, “Người bắt đầu nói với đám đông về Gioan.” Và, thêm nữa: (1) về lời ca ngợi: “Anh em xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng?” (2) “Một người mặc gấm vóc lụa là chăng?” (3) “Đúng thế đó, Tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa.” (4) “Chính ông là người mà Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến” v.v.

Nhưng sau đó cần phải biết rằng có ba hạng người được nói là đang bị xiềng xích trói buộc: người công chính, kẻ gian ác, kẻ bị luận phạt. Người công chính bị đặt dưới xiềng xích của các giới răn; kẻ gian ác bị trói buộc trong xiềng xích của những kẻ tội lỗi; còn kẻ bị luận phạt thì bị giam trong xiềng xích của các lý hình. Về hạng người thứ nhất, sách Êdêkien 4,8: “Này, Ta sẽ lấy dây thừng trói ngươi lại.” Sách Hôsê 11,4: “Ta lấy dây ân nghĩa, lấy mối ân tình mà lôi kéo chúng.” Về hạng người thứ hai, sách  Châm ngôn 5,22: “Nó sa vào bẫy tội lỗi nó giăng ra.” Ngôn sứ Isaia 10,4: “Nó sẽ bị khuất phục dưới ách trói buộc.” Về hạng người thứ ba, sách Khôn Ngoan 17,2: “Bị bóng tối giam cầm.” Tin Mừng Mátthêu 22,18: “Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài.” Những ràng buộc thứ nhất thì phải tìm kiếm; những ràng buộc thứ hai thì phải tháo gỡ; còn những ràng buộc thứ ba thì phải tránh xa.

Càn phải ôm giữ các mối dây của các giới răn vì ba lý do: thứ nhất, bởi nhờ các mối dây ấy, linh hồn được an toàn trước mọi sự dữ; thứ hai, bởi ai bị ràng buộc bởi những mối ấy thì được chở che trong ánh sáng khôn ngoan của Thiên Chúa; và thứ ba, bởi chính từ nơi ấy, người ta được dẫn đưa vào trách nhiệm cai quản trong trật tự thánh. Về lý do thứ nhất, trích sách Giảng viên: “Bấy giờ, những xiềng xích của nàng sẽ nên như một thành lũy vững bền” (Gv 6,30). Về lý do thứ hai, theo sách Khôn Ngoan 10,14: “Và chẳng bỏ rơi khi ông phải mang xiềng”. Còn lý do thứ ba, sách Giảng viên 4,14: “Vì có khi người ta từ lao tù và xiềng xích mà được đưa lên cai trị trong vương quốc.” Vì thế cân ôm giữ những xiềng xích của các giới răn, nhưng  phải tháo cởi những xiềng xích của kẻ tội lỗi.

Người tội lỗi bị trói buộc trong những dây xích của kiêu ngạo, của lòng tham lam, của dâm dục, và của miệng lưỡi gian ác. Về xiềng xích thứ nhất, sách Gióp 39,5: “Ai đã trả tự do cho lừa hoang? Hay ai đã cởi dây cột lừa hoang?” Hình ảnh con lừa hoang được hiểu là tượng trưng cho tính kiêu ngạo. Như lại được chép trong sách Gióp 11,12: "Vì kẻ ngu si sẽ thành người am hiểu, dù rằng con người được sinh ra như lừa non nơi hoang dã.” Do đó, xiềng xích của lừa hoang chính là biểu tượng cho xiềng xích của sự kiêu ngạo. Về xiềng xích thứ hai, sách Isaia 5,18: “Khốn thay những kẻ lấy dây gian tà mà kéo lầm lỗi”. Mà của cải thế gian chính là hư ảo. Về xiềng xích thứ ba, sách Châm ngôn 7,22: “Thế là chàng đi theo nàng tức khắc, như con bò đi vào lò sát sinh, như con nai sa vào tròng vào bẫy, và chẳng hay biết rằng mình bị lôi kéo như kẻ ngu muội vào vòng xiềng xích”. (theo bản Vulgata); bởi lẽ đôi tay của người nữ chính là xiềng xích lôi kéo. Trong sách Giảng viên 7,27: “Tôi thấy rằng: người nữ mà lòng là cạm bẫy và lưới, và tay là xiềng xích - thì còn cay đắng hơn cả sự chết.” (Gv 7,27). Đó chính là những xiềng xích cần phải được tháo cởi.

Những mối ràng buộc này được tháo gỡ theo bốn cách: (1)nhờ ơn công chính hóa; (2) nhờ ơn thống hối; (3) nhờ sự khiêm cung trong việc xưng tội; (4) bằng việc đền tội để đền bù thỏa đáng.” Về cách thứ nhất, Thánh Vịnh 116,16 chép rằng: “xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi.” Nghĩa là, chính Chúa đã thực hiện điều ấy bằng cách đổ tràn ân sủng. Về cách thứ hai, sách Đanien 3,25: “Kìa, ta thấy bốn người không bị trói.” Nơi đây nói rằng: ngọn lửa đã thiêu hủy xiềng xích của các thiếu niên. Ngọn lửa ấy được hiểu là lòng thống hối. Như Thánh Vịnh 39,3: “Lòng con càng ngẫm nghĩ, lửa càng bừng cháy.” Về cách thứ ba, theo sách Hôsê 5,13 (bản Vulgata): “Khi Ép-ra-im thấy mình mắc bệnh và Giuđa thấy vết thương của mình.” Giuđa được hiểu là hình ảnh của việc thú tội. Do đó, người ấy thấy vết thương của mình khi ăn năn sám hối; người ấy thấy mình bị trói buộc bởi xiềng xích của kẻ có tội; và người ấy tuyên xưng chính mình trong việc xưng thú tội lỗi, để được tháo cởi. Về cách thứ tư, trong sách Nakhum 1,12-13 có chép: “Ta đã hạ nhục người… và Ta sẽ đập tan xiềng xích trói buộc ngươi.” Như vậy, các xiềng xích của kẻ có tội được tháo gỡ; nhưng các xiềng xích của những kẻ tra tấn thì phải tránh xa vì ba lý do: (1) vì chúng là bóng tối; (2) vì chúng tàn nhẫn; (3) vì chúng là vĩnh cửu. Về lý do thứ nhất, sách Khôn Ngoan 17: “Bị bóng tối giam cầm.” Về lý do thứ hai, sách Giảng Viên 13,15 ghi rằng: “Người sẽ không nương tay hại ngươi, và ném ngươi vào ngục tù.” Về những xiềng xích này, sách Isaia 28,22 cảnh báo: “Lỡ đâu hắn bị trói bằng xiềng xích của chúng ta.” Về lý do thứ ba, Thư Giuđa 6, dạy rằng: “Người đã giữ giam trong xiềng xích muôn đời dưới bóng tối.” Người nói đến các quỷ dữ.

Chúng ta xin Thiên Chúa giải thoát khỏi những xiềng xích này.