Skip to content
Banner 10.2024
Ngôn ngữ

Những quan niệm về Hy vọng trong Thánh Kinh và Thánh Truyền - Kỳ VII

Văn phòng Học Viện
2025-02-07 09:12 UTC+7 79

NHỮNG QUAN NIỆM VỀ HY VỌNG

TRONG THÁNH KINH VÀ THÁNH TRUYỀN

Phan Tấn Thành, OP.

(trích Đời sống tâm linh - tập XIV)

NỘI DUNG

- Kỳ I :--Chương mở đầu: KHÁI NIỆM VỀ HY VỌNG

-----------Chương Một. CỰU ƯỚC

- Kỳ II :-------- -Mục 1. Đối tượng hy vọng

- Kỳ III:----------Mục 2. Động lực hy vọng

------------Chương Hai. TÂN ƯỚC

- Kỳ IV :--- - -- Mục 1. Nhất lãm

- Kỳ V :-------- Mục 2. Thánh Phaolô

- Kỳ VI :--------Mục 3. Các tác phẩm của Gioan

------------Chương Ba. LỊCH SỬ GIÁO HỘI

-----------------Mục 1. Đối tượng hy vọng: Hy vọng cái gì?

- Kỳ VII : ----------------I. Thời các giáo phụ

- Kỳ VIII : ---------------II. Thời Trung cổ

-------------------------III. Thời Cận đại

- Kỳ IX:-----------------IV. Từ công đồng Vaticanô II

------------------Mục 2. Chủ thể hy vọng: Hy vọng là gì?

- Kỳ X : ------------------I. Thời các giáo phụ

--------------------------II. Thời kinh viện: hy vọng tự nhiên và hy vọng siêu nhiên

- Kỳ XI :-------------- ---III. Thời cận đại: sự cần thiết của đức Hy vọng

---------------------- ---IV. Thời hiện đại: vài văn kiện của Huấn quyền

**********

Kỳ VII

Chương ba: LỊCH SỬ GIÁO HỘI

Mục 1. QUAN NIỆM VỀ ĐỐI TƯỢNG HY VỌNG: (phần 1)

THỜI CÁC GIÁO PHỤ

I. Thời các giáo phụ

-- -A. Thách đố của văn hoá

-- -- -- 1. Văn hóa Do thái và văn hóa Hy lạp

-- -- -- 2. Những lạc thuyết

-- -- -- 3. Việc giải thích Thánh kinh

-- -B. Niềm tin của Giáo hội

-- -- -- 1. Tín biểu

-- -- -- 2. Phụng vụ

-- -- -- 3. Huấn quyền

-- -C. Khảo luận thần học

*****

Trong hai chương vừa rồi, chúng ta đã theo dõi sự tiến triển mặc khải về niềm hy vọng cánh chung trong Cựu ước và Tân ước. Cách riêng, khi khảo sát những bản văn Tân ước, chúng ta nhận thấy có những điểm nhấn khác nhau giữa Tin mừng Nhất lãm, thánh Phaolô, thánh Gioan. Nói chung, các tác giả đã tìm cách trình bày sứ điệp tuỳ theo nhu cầu của các cộng đoàn tín hữu. Khi còn ở trần thế, Đức Giêsu rao giảng Tin mừng cho người Do thái: họ đang mong chờ Đấng Mêsia để thiết lập vương quyền của Thiên Chúa. Đức Giêsu tìm cách đáp lại niềm mong đợi của họ, nhưng đồng thời Người cũng sửa chữa những bất cập của họ. Thánh Phaolô đi loan báo Tin mừng cho những dân cư sống ở miền Tiểu Á, chịu ảnh hưởng văn hóa Hy lạp; thánh Tông đồ vừa sử dụng những ngôn ngữ của các tôn giáo huyền bí để trình bày ơn cứu độ, vừa sửa chữa quan niệm lệch lạc về giá trị thân xác. Thánh Gioan viết sách Khải huyền để khuyến khích cộng đồng các tín hữu đang bị bách hại, mời gọi họ hãy vững tin vào về sự chiến thắng của Đức Kitô phục sinh trên mọi lực lượng sự ác. Nói khác đi, các tác giả Tân ước đã lưu ý đến yếu tố văn hoá khi trình bày Tin mừng.[1]

Trong chương này, chúng ta sẽ theo dõi cách thức Giáo hội diễn tả niềm hy vọng của mình trải qua dòng lịch sử, từ thời các giáo phụ cho đến thời hiện đại. Chúng ta sẽ tìm hiểu những vấn đề được đặt lên cho Giáo hội do những thách đố của việc tiếp xúc với các nền văn hoá khác nhau (với những quan điểm khác nhau về thực tại tối hậu và về hạnh phúc), từ đó nảy sinh những lối tiếp cận mới, những học thuyết và lạc thuyết, cũng như tuyên ngôn của Huấn quyền.

Chương này được phân làm hai mục: mục thứ nhất chú trọng đến việc trình bày đối tượng hy vọng (những thực tại tối hậu); mục thứ hai tìm hiểu sự diễn tả khía cạnh chủ thể của niềm hy vọng. Dĩ nhiên, sự phân biệt hai khía cạnh khách thể và chủ thể của hy vọng chỉ nhằm làm sáng tỏ vấn đề; trên thực tế, cả hai đều liên hệ mật thiết với nhau.

Mục 1 :

QUAN NIỆM VỀ CÁC ĐỐI TƯỢNG HY VỌNG
TRONG LỊCH SỬ KITÔ GIÁO

Trong mục này, chúng ta sẽ tìm hiểu những khuynh hướng diễn tả các thực tại cánh chung, trải qua bốn giai đoạn chính của lịch sử Hội thánh: 1/ Thời các giáo phụ. 2/ Thời Trung cổ. 3/ Thời Cận đại. 4/ Từ công đồng Vaticanô II. Ở mỗi giai đoạn, chúng tôi cố gắng vạch ra ba điểm: a) những thách đố văn hóa; b) đức tin của Hội thánh, được biểu lộ qua các tín biểu, phụng vụ, lòng đạo đức bình dân; c) những suy tư thần học. Chúng ta sẽ nhận thấy nhiều biến chuyển trải qua mỗi thời đại do những yếu tố văn hóa. Nói chung, có sự thay đổi điểm nhấn: từ hy vọng cộng đồng đến hy vọng cá nhân; và nguy hơn nữa, các thực tại cánh chung dần dần không còn gợi lên dấu chỉ hy vọng nữa, nhưng trở thành nỗi lo sợ.

I. Thời các giáo phụ

Thời các giáo phụ kéo dài từ thời các thánh tông đồ (thế kỷ I) cho đến khoảng thế kỷ VII. Trong thời gian này, nhiều biến cố đã ghi dấu đậm trên khuôn mặt của Giáo hội: từ cảnh bách hại trong ba thế kỷ đầu, cho đến sự bành trướng từ thế kỷ IV; từ văn hoá Do thái của các tác giả Tân ước đến sự tiếp xúc với văn hoá Hy lạp vào thời các giáo phụ. Bối cảnh văn hoá gây ra những giao động không nhỏ đối với niềm tin.

-- -A. Thách đố của văn hoá

-- -- -- 1. Văn hóa Do thái và văn hóa Hy lạp

Các tác phẩm Tân ước ra đời trong bối cảnh của văn hoá Do thái. Như chúng ta đã thấy trong chương trước, cánh chung luận của Tân ước nổi bật với hai đề tài chính: a) Biến cố Phục sinh của Đức Kitô và việc phái cử Thánh Thần đã đánh dấu giai đoạn cuối cùng của lịch sử cứu độ. Các tín hữu mong chờ Chúa Kitô trở lại để hoàn tất Nước Thiên Chúa. b) Ơn cứu độ được thể hiện cách cụ thể qua việc người chết sẽ sống lại với Chúa Kitô. Qua các thư của thánh Phaolô gửi các tín hữu Thêxalônica và Côrintô, ta biết được là các tín hữu tin rằng ngày Quang lâm gần kề, nghĩa là sẽ xảy ra ngay trong thế hệ Kitô hữu tiên khởi. Tuy nhiên, sang đến thế hệ thứ hai, vài biến chuyển không nhỏ đã xảy ra. Ngày Quang lâm vẫn chưa đến, vì thế các tín hữu (kể cả thánh Phaolô) đặt câu hỏi về số phận của những người đã qua đời: thân phận họ sẽ ra sao? Câu hỏi này phải chờ đến thời Trung đại mới được giải đáp dứt khoát.

Cuộc tiếp xúc với văn hóa Hy lạp có những khía cạnh tích cực và tiêu cực của nó. Văn hoá Do thái quan niệm con người như một tổng thể: họ cho rằng chết là hết, và mong chờ sự sống lại (của toàn thể con người) dựa trên lời hứa của Chúa. Văn hoá Hy lạp thì khác: Con người là một hợp thể gồm bởi hồn và xác; khi chết, linh hồn ra khỏi xác và trở thành bất tử, còn thân xác thì tiêu tan. Cái chết là sự giải thoát linh hồn khỏi tù rạc thân xác. Văn hoá Hy lạp cung cấp cho Kitô giáo một chìa khóa để giải quyết câu hỏi về cánh chung cá nhân, đó là sau khi chết, tuy thân xác tan thành tro bụi nhưng linh hồn sẽ trở về với Chúa. Tuy nhiên, nguy cơ của văn hóa Hy lạp là họ coi nhẹ sự sống lại của thân xác: Thân xác là đồ ô uế nhơ nhớp thì cho nó sống lại làm gì? Trong bối cảnh đó, chúng ta mới hiểu vì sao các triết gia ở Athène đã đứng dậy ra về khi nghe thánh Phaolô thuyết giảng về thân xác sống lại (x. Cv 17,30).

Các giáo phụ hộ giáo, chẳng hạn như Aristide (k.125), Thêophilô Antiôkia (k.180), Athenagora (k.177), Minuciô Felix (k.180), thánh Giustinô (100-165) đã vất vả bênh vực cho niềm tin vào sự sống lại, dựa trên quyền năng của Thiên Chúa. Chúng ta nên ghi nhận điều này: Đức tin Kitô giáo về sự sống lại gặp sự chống đối không phải từ các chủ nghĩa duy vật, nhưng là từ các thuyết “duy linh”. Thiết tưởng đây cũng là thách đố cho chúng ta ngày nay đối với thuyết luân hồi tái sinh.

-- -- -- 2. Những lạc thuyết

Khi bàn về sự tiến triển của đạo lý, chúng ta đừng vội hình dung như con đường tiến hoá một chiều. Sự tiếp xúc với các nền văn hoá (cũ mới) sẽ phát sinh ra hai khuynh hướng bảo thủ và cấp tiến. Khuynh hướng nào cũng có sự thiếu sót của nó. Phe bảo thủ muốn trung thành với truyền thống cha ông, nhưng có nguy cơ trở thành cố chấp. Phe canh tân muốn đón nhận những trào lưu mới nhưng có nguy cơ là mất gốc, từ đó nảy ra các lạc thuyết. Tuy nhiên, chúng ta đừng vội kết án những người xướng xuất: nhiều lần họ rất thành tâm với đạo lý mặc khải, nhưng có khi sự trình bày vụng về khiếm khuyết đã đưa đến chỗ lệch lạc. Vào thời này có ba trào lưu đáng kể: a) phong trào Montanô; b) thuyết Ngộ giáo; c) thuyết Thiên niên.

a) Phong trào Montanô

Như vừa nói, các Kitô hữu tiên khởi nuôi dưỡng niềm hy vọng Chúa Kitô sắp quang lâm. Họ sống trong tâm trạng khắc khoải trông mong, thậm chí trong tư thế tạm bợ, chẳng màng chi tới công ăn việc làm khiến cho thánh Phaolô phải khiển trách (x. 2Tx 3,10-11). Dần dần, các tín hữu chấp nhận thực tại là ngày Quang lâm chưa đến, vì thế cần phải tổ chức đời sống cá nhân cũng như cộng đoàn. Cách riêng, Giáo hội phải dự trù những cơ quan điều hành (các thể chế quản trị cộng đoàn). Nguy cơ là Giáo hội sẽ lãng quên thân phận “lữ hành” của mình bởi chỉ quan tâm đến việc kiện toàn guồng máy tổ chức. Ta có thể coi phong trào Montanô như phản ứng lành mạnh đối lại với nguy cơ vừa nói. Montanô tự nhận là một ngôn sứ, xuất hiện khoảng năm 170. Ông loan báo ngày Quang lâm đã gần kề, Đức Kitô đến để thiết lập thành Giêrusalem mới. Ông hô hào dân chúng đi đón Ngài ở Phrygia. Để chuẩn bị đón Chúa, ông đề xuất vài biện pháp tu đức khổ chế ăn chay, từ bỏ thế gian, thoát ly hôn nhân. Tiếc rằng phong trào này sớm tan vỡ vì những lời tiên tri không ứng nghiệm. Tuy vậy, phong trào này đã để lại một luồng gió thần khí trong Giáo hội, cách riêng với sự gia nhập của ông Tertullianô (k.150-222?), theo đó, việc cai quản Giáo hội phải được giao cho những người “thần khí” (homo spiritualis) chứ không phải cho hàng phẩm trật.[2]

b) Thuyết ngộ giáo

Có thể coi thuyết ngộ giáo (gnosticismus) như một hậu quả của việc tiếp xúc với văn hóa Hy lạp.[3] Theo họ, chỉ duy có linh hồn mới đáng quý chứ thân xác là đồ nhơ nhớp phế bỏ. Ngoài nguy cơ rơi vào thuyết nhị nguyên, vũ trụ ở dưới sự thống trị của hai nguyên ủy là Thần Thiện và Thần Ác), các giáo phụ (nhất là thánh Irênê) nhận thấy những hệ luận khác trầm trọng hơn do việc khinh miệt thân xác: Đó là họ coi nhẹ mầu nhiệm Nhập thể vì Đức Giêsu không có thể xác thực sự, mà chỉ có hình dạng thể xác (lạc thuyết ảo hình docetismus) và hậu nhiên Đức Maria không phải là mẹ của Đức Giêsu, vì nếu Chúa không phải là người thực thì sao có mẹ được. Mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Giêsu cũng trở nên vô nghĩa nếu Người không có thân xác, và mầu nhiệm Thánh Thể cũng thế bởi vì nếu thân thể là đồ ô uế thì sao phải thờ lạy?

c) Thuyết thiên niên

Dường như để phản ứng lại thuyết ngộ giáo, ta thấy xuất hiện một phong trào đề cao các giá trị của thân xác, hôn nhân và vật chất nơi thuyết thiên niên. Dựa theo bản văn của sách Khải huyền (chương 20, câu 1-10), họ chủ trương rằng Chúa Kitô sẽ trở lại dương gian này và những người công chính trước khi về thiên quốc sẽ hưởng lạc “một ngàn năm” (tiếng La tinh là millenarismus, gốc bởi danh từ millennium: thiên niên hay một ngàn năm; tiếng Hy lạp là chiliasmos do chilias là một ngàn, một “kí”). Từ ngữ này được lặp đi lặp lại 6 lần, ở các câu 2.3.4.5.6.7.

Các giáo phụ đã phải lao đao nhiều để chống lại thuyết thiên niên, bởi vì nó dựa theo bản văn Tân ước (như vậy là phù hợp với mặc khải Kitô giáo), chứ không phải là nhập khẩu từ văn hoá ngoại lai. Vài giáo phụ, như Điônisiô Alexanđria (thế kỷ III), đã không nhận sách Khải huyền vào sổ bộ Thánh kinh để tránh sự lạm dụng của đối phương. Ông Origene chỉ giải thích thuyết thiên niên theo nghĩa bóng. Nhờ thánh Augustinô (De civitate Dei, XX, 7.9) Giáo hội mới tìm được lời giải đáp cho vấn đề: Một ngàn năm tượng trưng cho thời kỳ của Giáo hội (khởi sự từ cuộc Phục sinh của Chúa Kitô cho đến lúc Quang lâm). Trong thời gian này, ma quỷ đã mất quyền lực và chỉ tác hại những ai phụng sự nó.

Chúng ta biết là thuyết thiên niên không hoàn toàn biến mất sau thời các giáo phụ. Các nhà xã hội học cho thấy nó chết đi sống lại nhiều lần trong lịch sử, kể cả vào thời đại của chúng ta.[4] Thuyết thiên niên được đặt tên cho những phong trào hay lý thuyết mơ màng một thứ “Vương quốc Thiên Chúa ở trần gian”. Chẳng hạn như hồi thế kỷ XIII, phong trào của Gioakim Fiore loan báo kỷ nguyên của thần khí đã đến gần, khi thế giới này trở về các giá trị Tin mừng dưới sự dìu dắt của Chúa Thánh Thần. Vào thời Cải cách Luther, nhiều giáo phái cũng tiên báo sự thực hiện Nước Thiên Chúa trên trần gian, trong đó các Kitô hữu sẽ lãnh đạo thế giới. Trái lại, thuyết cộng sản Mácxít cũng được xếp vào thuyết thiên niên, bởi vì họ mơ màng một xã hội huynh đệ công bằng trên mặt đất, trong đó tài sản được phân chia đồng đều, không còn phân biệt giai cấp. Tuy nhiên, khác với các phong trào trước đây, thuyết Mácxít không nhắc tới sự hiện diện của Đức Kitô hoặc của Thiên Chúa, và cũng chẳng nhắc tới một Nước Thiên Chúa vĩnh cửu trên thiên giới.

Dù sao, chúng ta không nên lẫn lộn thuyết “thiên niên” với thuyết “thiên niên kỷ”. Như chúng ta đã biết, cách đây không lâu, người ta tiên báo rằng năm 2000 thì tận thế. May thay, chúng ta đã bước sang năm 2016 mà chưa thấy chi khác thường. Giả thuyết về tận thế vào năm 2000 dựa theo một lối tính thiếu khoa học, bắt nguồn từ đạo Do thái. Theo họ, thế giới này kéo dài 6000 năm (tương đương với tuần lễ tạo dựng 6 ngày: “Ngàn năm như một ngày”, (x. Tv 90,4; 2Pr 3,8) ngày Thứ Bảy Thiên Chúa sẽ nghỉ ngơi, nghĩa là vạn vật trở về hư vô. Thế mà 4000 ngàn năm đã trôi qua trước Chúa Giáng sinh, vị chi chỉ tồn tại 2000 năm Công nguyên nữa thôi!

-- -- -- 3. Việc giải thích Thánh kinh

Ta cũng có thể kể đến một hệ luận khác của cuộc tiếp xúc với văn hóa Hy lạp là việc giải thích Thánh kinh, đặc biệt tại Alêxandria. Tuy đức tin dựa trên Thánh kinh, nhưng việc giải thích Thánh kinh tùy thuộc vào nhiều điều kiện của người đọc. Cách riêng trong lãnh vực cánh chung, người đọc có thể mang não trạng “khải huyền” hay “ngôn sứ”, chú trọng đến cánh chung phổ quát hay cánh chung cá nhân. Người ta thường đi tìm trong Thánh kinh câu trả lời cho mối băn khoăn của mình. Nếu không có băn khoăn thì sẽ không đi tìm; nhưng mà cần xét xem đó là thứ băn khoăn nào.

Nói chung, trong các thế kỷ đầu, các giáo phụ giải thích Thánh kinh theo “nghĩa đen”, và họ chú tâm đến cánh chung phổ quát hơn là cánh chung cá nhân. Tuy nhiên, tại Alêxanđria, một phương pháp mới dần dần phát triển, đó là giải thích theo lối ám dụ và người ta lưu tâm đến cánh chung cá nhân hơn là cánh chung tổng quát. Điển hình là ông Origène đã có những học thuyết độc đáo dựa theo phương pháp chú giải này, chẳng hạn như “lửa hỏa ngục” cần hiểu theo nghĩa bóng, ám chỉ những ray rứt lương tâm. Điều gây khó khăn hơn cả là chủ trương “hoàn nguyên vạn vật” (apokatastasis) của ông, theo đó, cuối cùng tất cả mọi thọ tạo (kể cả ma quỷ) sẽ trở về với Thiên Chúa.

-- -B. Niềm tin của Giáo hội

Niềm tin của Giáo hội chung quanh vấn đề cánh chung được phát biểu qua nhiều dạng khác nhau: Tín biểu; phụng vụ; huấn quyền.

-- -- -- 1. Tín biểu

Trước hết chúng ta phải kể đến các Tín biểu cổ truyền (tóm lược các chân lý đức tin), trong đó ngay từ khi học đạo, người dự tòng đã được dạy về chân lý “thân xác sống lại, sự sống vĩnh cửu”. Hai chân lý này được đặt ở cuối tín biểu, kết thúc công trình cứu độ bắt đầu với việc tạo dựng (phần I) và tiếp nối với việc cứu chuộc (phần II). Thêm vào đó là các chân lý về việc Chúa Kitô phục sinh, lên trời, và sẽ trở lại trong vinh quang “để phán xét kẻ sống và kẻ chết” cũng như để thiết lập vĩnh viễn Nước Chúa.

-- -- -- 2. Phụng vụ

Niềm tin của Giáo hội cũng còn được phát biểu qua phụng vụ: Trong Thánh lễ, các tín hữu được thông hiệp không những với Ba ngôi Thiên Chúa, nhưng còn với Đức Trinh nữ Maria, các thánh và các anh chị em đã đi trước. Lễ nghi an táng và các ngôi mộ cũng nói lên niềm hy vọng phục sinh, tái ngộ. Các tấm bia trên các ngôi mộ của người Kitô hữu diễn tả niềm hy vọng (RIP: Requiescat in pace, rest in peace, an nghỉ, nghỉ giấc bình an), khác với tấm bia của người ngoại đạo chỉ diễn tả thương tiếc. Tục lệ cầu nguyện cho người quá cố thịnh hành trong tất cả các Giáo hội bên Đông cũng như bên Tây, và sẽ là điểm tựa cho sự phát triển đạo lý về sự luyện tội. Giáo hoàng Grêgôriô cả được tặng tước hiệu “tiến sĩ luyện tội” nhờ việc cổ động cầu nguyện cho những linh hồn qua đời.

-- -- -- 3. Huấn quyền

Huấn quyền Giáo hội đã can thiệp đặc biệt tại một công nghị Constantinopolis năm 543, chống lại vài luận đề của phái Origene (các đồ đệ của ông chứ không phải chính ông), liên quan đến cánh chung cá nhân. Công đồng phi bác chủ trương cho rằng các linh hồn được tạo dựng từ muôn thuở, hoặc sẽ tiếp tục đầu thai để thanh luyện. Công đồng cũng phi bác chủ trương cho rằng ma quỷ sẽ trở về với Chúa.[5]

-- -C. Khảo luận thần học

Vào thời các giáo phụ, các vấn đề cánh chung được trình bày trong các bài giảng vào nhiều cơ hội khác biệt (chú giải Thánh kinh, chú giải kinh Tin kính, ...), nhưng chưa có hệ thống. Mãi đến cuối thời giáo phụ mới xuất hiện một tác phẩm tạm gọi là “chuyên đề” về cánh chung luận, mang tựa đề Prognosticum futuri saeculi (thế kỷ VII) của thánh Giulianô giám mục Tôlêđô, thuật lại một cuộc đàm đạo giữa tác giả với Đức cha Iđaliô giám mục Barcelona nhân dịp tham dự công đồng Tôlêđô năm 688, về số phận con người sau khi chết, xoay quanh ba đề tài: (a) Nguồn gốc sự chết; (b) Số phận linh hồn sau khi chết; (c) Thân xác phục sinh.[6]



[1] Để giản lược vấn đề, chúng tôi nói đến văn hóa Do thái và văn hóa Hy lạp. Thực ra bối cảnh tôn giáo của thời Kitô giáo tiên khởi phức tạp hơn nhiêu. Xc. Phan Tấn Thành, Về nguồn Quyển I: Nguồn gốc Kitô giáo & thời các tông đồ, Học viện Đa Minh, Gò vấp 2013, trang 228-239.

[2] Về phong trào Montanô, xem: Phan Tấn Thành, Về nguồn. Quyển Hai: Thời các giáo phụ. Học viện Đa Minh Gò vấp, 2013, trang 185-187.

[3] Về phong trào Ngộ giáo, xem: Phan Tấn Thành, Về nguồn, Quyển Hai..., trang 60-54.

[4] Henri Desroche, Dieux d'hommes. Dictionnaire des Messianismes et Millénarismes de l'Ere Chrétienne, Mouton, Paris 1969. Theodore Olson, Millenialism, utopianism, and progress, University of Toronto Press, Toronto 1982. Massimo Introvigne, Che cos’è il millenarismo, in: “Sette e Religioni” 1 (1991), 34-52. R.G. Clouse, R.N. Hosack, R.V. Rierard, The New Millennium Manual: A Once and Future Guide, Baker Books, Grand Rapids MI 1999.

[5] Xem: Phan Tấn Thành, Về nguồn. Quyển Hai, trang 123.

[6] Xem Phan Tấn Thành, Về nguồn, Quyển Hai, trang 548-552.

Chia sẻ