Những quan niệm về Hy vọng trong Thánh Kinh và Thánh Truyền - Kỳ X
NHỮNG QUAN NIỆM VỀ HY VỌNG
TRONG THÁNH KINH VÀ THÁNH TRUYỀN
Phan Tấn Thành, OP.
(trích Đời sống tâm linh - tập XIV)
NỘI DUNG
- Kỳ I :--Chương mở đầu: KHÁI NIỆM VỀ HY VỌNG
-----------Chương Một. CỰU ƯỚC
- Kỳ II :-------- -Mục 1. Đối tượng hy vọng
- Kỳ III:----------Mục 2. Động lực hy vọng
------------Chương Hai. TÂN ƯỚC
- Kỳ IV :--- - -- Mục 1. Nhất lãm
- Kỳ V :-------- Mục 2. Thánh Phaolô
- Kỳ VI :--------Mục 3. Các tác phẩm của Gioan
------------Chương Ba. LỊCH SỬ GIÁO HỘI
-----------------Mục 1. Đối tượng hy vọng: Hy vọng cái gì?
- Kỳ VII : ----------------I. Thời các giáo phụ
- Kỳ VIII : ---------------II. Thời Trung cổ
-------------------------III. Thời Cận đại
- Kỳ IX:-----------------IV. Từ công đồng Vaticanô II
------------------Mục 2. Chủ thể hy vọng: Hy vọng là gì?
- Kỳ X : ------------------I. Thời các giáo phụ
--------------------------II. Thời kinh viện: hy vọng tự nhiên và hy vọng siêu nhiên
- Kỳ XI :-------------- ---III. Thời cận đại: sự cần thiết của đức Hy vọng
---------------------- ---IV. Thời hiện đại: vài văn kiện của Huấn quyền
**********
Kỳ X
Chương ba: LỊCH SỬ GIÁO HỘI
Mục 2: QUAN NIỆM VỀ CHỦ THỂ HY VỌNG
THỜI CÁC GIÁO PHỤ và THỜI KINH VIỆN
I. Thời các giáo phụ
-- -- --1. Đức cậy với hai đức tin và mến
-- -- --2. Cầu nguyện và đức cậy
II. Thời kinh viện: hy vọng tự nhiên và hy vọng siêu nhiên
-- -A. Hy vọng tự nhiên
-- -- --1. Hy vọng như một cảm xúc
-- -- --2. Vài đặc trưng và hệ luận
-- -B. Nhân đức Hy vọng
-- -- --1. Bản chất
-- -- --2. Chủ thể
-- -- --3. Đối tượng
-- -- --4. Trái nghịch với nhân đức hy vọng
-- -- --5. Tương quan với các nhân đức khác
**********
Trong mục vừa rồi, chúng ta đã theo dõi những lối trình bày các thực tại cánh chung trong lịch sử Hội thánh. Chúng tôi đặt tên là “đối tượng hy vọng” (hy vọng cái gì?), tuy rằng trên thực tế, vào thời cận đại, những thực tại ấy thường gây ra sợ hãi hơn là hy vọng. Trong mục này, chúng ta sẽ tìm hiểu khía cạnh chủ thể của hy vọng (hy vọng là gì?). Chúng ta biết rằng hy vọng là một tâm trạng tự nhiên của con người; như vậy, hy vọng của một Kitô hữu có gì đặc biệt không? Có gì khác biệt giữa tâm tình hy vọng của con người trong đời sống bình thường, với niềm hy vọng vào Thiên Chúa không? Có gì khác biệt giữa tâm tình hy vọng và nhân đức hy vọng không? Có gì khác biệt giữa đức hy vọng với đức tin và đức mến không?
Nói cách khác, mục trước ôn lại lịch sử của cánh chung luận, còn mục này ôn lại lịch sử của đức hy vọng. Chúng tôi xin tạm phân làm bốn giai đoạn: 1/ Thời các giáo phụ: đức hy vọng so với đức tin và đức mến (thánh Augustinô). 2/ Thời kinh viện: hy vọng tự nhiên và hy vọng siêu nhiên (thánh Tôma Aquinô). 3/ Thời cận đại: sự cần thiết của đức hy vọng qua cuộc tranh luận với nhóm Cải cách.[1] 4/ Thời hiện đại, đức Hy vọng vào thời buổi con người sống giữa những hy vọng, ảo vọng, thất vọng.
I. Thời các giáo phụ
Trong mục trước, chúng ta đã thấy thế hệ Kitô hữu tiên khởi sống trong niềm mong đợi ngày Quang lâm gần kề. Dần dần, niềm mong đợi ấy xem ra nguôi đi. Tuy nhiên, đó chỉ là một cảm tưởng hời hợt. Các tín hữu diễn tả niềm hy vọng qua nhiều hình thức, chẳng hạn như qua phụng vụ, đặc biệt là việc cử hành Thánh lễ. Các thánh tử đạo là một dấu chỉ nữa: họ sẵn sàng hy sinh mạng sống ở đời này trong niềm hy vọng sẽ gặp gỡ Đức Kitô. Đó là cách sống niềm hy vọng của Hội thánh.
Các giáo phụ đầu tiên[2] bàn về đối tượng hy vọng hơn là chủ thể hy vọng. Cũng như thánh Phaolô, các ngài nêu bật những niềm hy vọng mới mà Đức Kitô đã mở ra cho nhân loại, cách riêng khi đối chiếu với các tôn giáo cổ điển. Khi bàn về khía cạnh chủ thể, các ngài nhấn mạnh đến những đức tính kèm theo niềm hy vọng, chẳng hạn như nhẫn nại, kiên trì, trông mong. Nói cách khác, qua các bài giảng, các giáo phụ khuyến khích các tín hữu sống niềm hy vọng, chứ không lý luận về hy vọng. Một biểu tượng của hy vọng là chiếc neo tàu, được sớm du nhập vào phụng vụ và văn chương Kitô giáo, có lẽ được gợi ý từ đoạn văn trong thư Hípri 6,19: “Chúng ta có niềm hy vọng đó cũng tựa như cái neo chắc chắn và bền vững của tâm hồn, chìm sâu vào bên trong bức màn cung thánh”.
Nói được là phải chờ đến thánh Augustinô, ta mới thấy đào sâu khía cạnh tâm lý của hy vọng. Tác giả đã đề cập đến vấn đề này trong những sách tự thuật hoặc khảo luận về việc đi tìm Thiên Chúa, trong đó nổi tiếng nhất là quyển X của sách Tuyên xưng (Confessiones). Bên cạnh đó, ngài cũng phải chống lại phái Pêlagiô trong cuộc tranh luận về khả năng của con người để đạt đến hạnh phúc vĩnh cửu (chẳng hạn như trong khảo luận De vera religione).
Dưới khía cạnh lý thuyết, thánh Augustinô tìm cách suy tư về bản tính của đức hy vọng xét trong tương quan với hai nhân đức tin và mến, cũng như trong tương quan với việc cầu nguyện.
-- -- --1. Đức cậy với hai đức tin và mến
Như chúng ta biết, trong các thư của thánh Phaolô, bộ ba tin-cậy-mến thường được gắn liền với nhau, cách riêng đôi khi đức tin và đức cậy xem ra cũng là một. Ba nhân đức ấy có thực sự khác nhau không?
Khởi đi từ đoạn văn ở đầu chương 11 của thư gửi người Hípri, thánh Augustinô suy nghĩ về sự giống nhau và khác nhau giữa tin và hy vọng. Cả hai gặp nhau ở đối tượng, đó là những “điều không thấy” (Rm 8,24). Sự khác biệt nằm ở chỗ đức hy vọng chỉ nhắm đến những điều tốt lành và tương lai (x. Tractatus in Ioannis Evangelium, 79,1). Đức hy vọng mang ba yếu tố: a) ơn cứu độ; b) tương lai; c) của kẻ hy vọng. Hai yếu tố đầu tiên thuộc về đối tượng; yếu tố thứ ba thuộc về chủ thể.
Trong một tác phẩm khác (Enchiridion de fide, spe et caritate), tác giả giải thích rằng đức hy vọng khác với đức tin bởi vì ta có thể tin điều mà ta không hy vọng. Đức hy vọng nhắm đến một điều tốt, một điều tốt tương lai, một điều tốt cho bản thân (Spes ... non nisi bonarum rerum est, nec nisi futurarum, et ad eum pertinentium qui earum spem gerere perhibetur: PL 40,235). Còn đức tin có thể liên quan điều cực khổ (chẳng hạn hình phạt trong hỏa ngục), điều thuộc quá khứ (chẳng hạn sự phục sinh của Đức Kitô), hoặc không liên quan đến bản thân của mình (chẳng hạn các thiên thần). Tư tưởng của thánh Augustinô đã để lại ảnh hưởng sâu xa cho hậu thế, dường như một thứ định nghĩa cho bản tính của đức hy vọng.
-- -- --2. Cầu nguyện và đức cậy
Sự cầu nguyện biểu lộ và giải thích niềm hy vọng (Enchiridion 114), đặc biệt là qua kinh “Lạy Cha”. Trong kinh này, chúng ta xin Cha trên trời ban cho chúng ta đời sống vĩnh cửu (Vương quốc của Cha) cũng như những phương tiện cần thiết để đạt đến. Các phương tiện này vừa tích cực vừa tiêu cực. Các phương tiện tích cực về tinh thần là tuân theo ý Cha; những phương tiện trần thế cần thiết để đạt tới sự sống vĩnh cửu được tóm lại trong việc xin cơm bánh hằng ngày. Dưới mặt tiêu cực, chúng ta cần được che chở khỏi mọi sự dữ có thể ngăn cản nước trời đến: sự dữ thuộc quá khứ là tội lỗi mà ta đã phạm (và cần xin ơn tha thứ); sự dữ thuộc tương lai mà chúng ta có thể làm (và xin Chúa đừng để chúng ta sa chước cám dỗ); sự dữ tương lai của sự trừng phạt mà ta có thể phải chịu (và xin Chúa cứu thoát chúng ta).
Tưởng cũng nên biết là tác giả còn nhiều lần đề cập đến đức hy vọng khi chú giải các thánh vịnh.
II. Thời kinh viện: hy vọng tự nhiên và hy vọng siêu nhiên
Các giáo phụ bàn đến hy vọng như một nhân đức trong đời sống Kitô hữu. Thần học kinh viện thích xác định bản tính của các sự vật bằng cách định nghĩa các yếu tố cấu thành, cũng như đối chiếu với những hình dạng tương tự. Thánh Tôma Aquinô là một mẫu gương điển hình cho khuynh hướng này. Nhờ tiếp xúc với triết gia Aristote, ngài đã phân tích sự hiện diện của hy vọng trong đời sống con người; từ đó ngài đối chiếu với nhân đức siêu nhiên, để nêu bật những điểm tương đồng và khác biệt, dựa theo phương châm: "ân sủng không phá huỷ nhưng kiện toàn thiên nhiên" (gratia non destruit sed perficit naturam). Tác giả bàn về hy vọng tự nhiên như một “cảm xúc” (passio), và hy vọng siêu nhiên như một “nhân đức hướng Chúa” (virtus theologalis). Hy vọng tự nhiên thì ai cũng có; hy vọng siêu nhiên là một ân huệ Chúa ban. Chúng ta sẽ theo dõi từng chặng: trước tiên là hy vọng tự nhiên, sau đó là hy vọng siêu nhiên.
-- -A. Hy vọng tự nhiên
Thánh Tôma khởi đi từ khái niệm cơ bản, rồi từ đó, đi sau vào các đặc điểm của nó.
-- -- --1. Hy vọng như một cảm xúc
Trong tâm lý học hiện đại, passio được dịch là “đam mê”, nhưng trong triết học cổ điển, nó ám chỉ một chuyển động (motus) của lòng ham muốn kèm theo sự nhận thức một điều tốt hay điều xấu (lành hay dữ): nếu là điều tốt thì yêu thích, nếu là điều xấu thì ghét bỏ.[3] Nó là cảm xúc, thuộc về quan năng ước muốn (vis appetitiva), chứ không thuộc về quan năng nhận thức (cognitio): nó đi theo nhận thức.
Thánh Tôma đưa ra một khái niệm về hy vọng như sau: “Hy vọng là một cảm xúc tự nhiên đối với một điều tốt cam go trong tương lai nhưng có thể đạt được” (Summa Theologica, I-II, q.40, a.1). Qua khái niệm này, ta nhận ra được bản chất của hy vọng, và sự khác biệt với những cảm xúc khác:
- Hy vọng hướng đến một điều tốt cam go (bonum arduum); khác với lòng “ao ước” (desiderium) đối với một điều tốt bình thường.
- Hy vọng hướng đến một điều tốt trong tương lai; khác với sự “vui thích” (delectatio) khi điều tốt đã nằm trong tay rồi.
- Hy vọng hướng đến một điều tốt cam go; đối lại với “sợ hãi” là phản ứng trước một điều xấu (sự dữ) cam go.
- Hy vọng hướng đến một điều tốt cam go nhưng có thể đạt được; đối lại với “thất vọng” (desperatio) khi nhận thấy rằng mình không thể đạt được. Về điểm này, thánh Tôma còn phân biệt giữa “hy vọng” (sperare) với “trông mong” (exspectare), tuỳ theo khả năng mà mình ước lượng. Nếu mình có thể đạt được đối tượng nhờ khả năng của mình, thì đó là hy vọng thuần tuý; còn nếu mình hy vọng nơi sự trợ lực bên ngoài, thì đó là “trông mong”. Sự phân biệt này quan trọng khi bước sang đức hy vọng (hoặc trông cậy) trong lãnh vực siêu nhiên.
-- -- --2. Vài đặc trưng và hệ luận
Qua khái niệm sơ khởi, chúng ta đã khám phá ra vài tương đồng và khác biệt giữa hy vọng và các cảm xúc khác.
a) Hy vọng và ký ức
Hy vọng hướng về điều thiện trong tương lai, điều thiện mà ta chưa nắm được. Tuy nhiên, trong hành trình này, ký ức cũng giữ vai trò quan trọng. Nói khác đi, tuy hy vọng hướng đến tương lai, nhưng không bỏ qua quá khứ. Ký ức (nhớ lại quá khứ) góp phần vào nhận thức rõ rệt hơn về điều thiện tương lai mà ta đang nhắm tới. Ký ức cũng có thể giúp ta tự tin vào khả năng của mình có thể đạt đến mục tiêu. Nói khác đi, “kinh nghiệm” mà một động lực quan trọng cho hy vọng. Kinh nghiệm cũng bao hàm một sự nhận thức, nghĩa là hiểu biết. Sự hiểu biết giúp tăng cường hy vọng. Đây là sự khác biệt giữa “hy vọng” và “liều lĩnh”. Người liều lĩnh có thể là người to gan, nhưng cũng có thể rơi vào thái cực của sự cố chấp. Để duy trì được sự quân bình, hy vọng cần được hướng dẫn với nhân đức “độ lượng” (magnanimitas), một thành phần của đức hùng mạnh. Nó giúp chúng ta điều chỉnh niềm hy vọng bằng cách xác định xem điều mình đang theo đuổi có thật là điều tốt hay không; cũng như đánh giá đúng đắn khả năng của mình (II-II, q.128).[4]
b) Hy vọng và lo âu
Khi hướng về tương lai cam go, ta có “hy vọng” khi ước chừng ta có thể đạt được mục tiêu; còn nếu không, thì ta sẽ bỏ cuộc hoặc thất vọng. Nhưng đó là nói dưới khía cạnh siêu hình. Thực tế thì khác: bởi vì tương lai không phải là một chớp mắt nhưng là một thời gian kéo dài. Không lạ gì mà niềm hy vọng pha lẫn với những phập phồng lo âu, vì chưa chắc chắn đến trăm phần trăm là sẽ đạt được mục tiêu. Đối diện với tương lai còn bấp bênh, niềm hy vọng nằm ở giữa hai thái cực: tuyệt vọng (mất hy vọng) và ngạo mạn (quá tự tin).
c) Hy vọng và yêu mến
Giữa đôi bên có sự liên lạc hỗ tương. Đôi khi, yêu mến đem lại hy vọng: đôi khi hy vọng đem lại yêu mến. Chính vì yêu mến đối tượng tốt lành trong tương lai cho nên ta mới ước muốn và hy vọng (ex amore spes: I-II, q.24, a.4). Nhưng nếu ta chỉ có thể đạt được đối tượng nhờ sức mạnh của người khác, thì chúng ta yêu mến người ấy (amor ex spe: I-II, q.40, a.7). Nói cho cùng, ta hy vọng vì ta yêu, và ta yêu vì ta hy vọng.
d) Những hệ quả của hy vọng
Hy vọng mang lại niềm vui thích (I-II, q. 32, a. 3; I-II, q. 40, a. 8: spes per se causat delectationem); hay nói theo ngôn ngữ ngày nay, hy vọng mang lại sự phấn khởi lạc quan. Ngược lại, người mất hy vọng thì cũng dễ bị lôi cuốn vào sợ hãi (I-II, q.25, a.3), lo âu (I-II, q.35, a.8), xao xuyến (I-II, q.37, a.2).
-- -B. Nhân đức Hy vọng
Trong lãnh vực tự nhiên, hy vọng chỉ một cảm xúc và cần được điều khiển bởi nhân đức độ lượng. Trong lãnh vực siêu nhiên thì khác, nó là một nhân đức do Chúa phú ban. (Vì thế ở đây chúng tôi viết hoa). Hai lãnh vực này khác biệt do đối tượng và động lực.
-- -- --1. Bản chất
Thánh Tôma lấy lại định nghĩa của Petrus Lombardus về nhân đức Hy vọng như sau: “đức Hy vọng là sự trông mong chắc chắn sẽ được hạnh phúc vĩnh cửu, nhờ vào ân sủng của Chúa và công phúc”[5] (II-II, q.18,a.4). Qua định nghĩa này, ta thấy những yếu tố cốt yếu của nó
- Đối tượng của nó là hạnh phúc đời đời, nghĩa là được hưởng Thiên Chúa.
- Động lực là ân sủng của Thiên Chúa, nghĩa là sự giúp đỡ của chính Thiên Chúa. Như đã nói trên đây, thánh Tôma phân biệt giữa hai động từ “hy vọng” (sperare) và “trông mong” (exspectare) tuỳ theo mình dựa vào sức mạnh của mình, hay là dựa vào sự giúp đỡ của người khác.
Việc nương tựa vào Thiên Chúa không đồng nghĩa với thái độ hoàn toàn thụ động. Sự nương tựa này mang lại niềm tin tưởng, giúp cho ta thêm phấn khởi trong cuộc hành trình đi về cứu cánh của cuộc đời. Nhân đức Hy vọng không miễn trừ chúng ta khỏi những chiến đấu, nhưng tăng thêm lòng tin tưởng trong lúc chiến đấu.
-- -- --2. Chủ thể
Chủ thể của đức Hy vọng có thể hiểu theo hai nghĩa: chủ thể xét như là tác nhân (ai có thể hy vọng?), và xét như quan năng (hy vọng là hành vi của lý trí hay của ý chí?)
a) Trước tiên, chủ thể của nhân đức Hy vọng là những người còn đang trên đường lữ hành dương thế: homo viator, con người đang còn sống trong thời gian, còn hướng về tương lai. Vì thế nhân đức này sẽ không còn tồn tại nơi các phúc nhân trên trời nữa. Tưởng cũng nên biết là các nhà thần học kinh viện không chỉ tranh luận về đức Hy vọng nơi các thánh nhân, mà đặc biệt là nơi Đức Giêsu khi còn tại thế: Người có hy vọng không? Nói chung, câu trả lời là không. Lý do là đức Hy vọng đi theo đức Tin; mà đối tượng của đức tin là điều chưa thấy, còn Đức Giêsu thì đã được hưởng phúc kiến rồi.
b) Xét dưới khía cạnh các quan năng trong con người, chủ thể của đức hy vọng là ý chí (II-II, q.18, a.1). Ý chí là cơ quan giúp cho con người nhắm đến điều thiện tương lai cam go và có thể đạt được.
-- -- --3. Đối tượng
Đối tượng của nhân đức này là Thiên Chúa cùng với các thực tại tối hậu. Chúng ta hy vọng sẽ đạt đến các thực tại ấy mai sau. Đó là đối tượng chính yếu.
Tuy nhiên, vì chúng ta còn sống trên đời này, cho nên chúng ta cũng ước mong được những phương tiện cần thiết để đạt tới mục tiêu. Đây là đối tượng thứ yếu: những điều thiện hảo ở trên đời này nhắm tới hạnh phúc vĩnh cửu.
-- -- --4. Trái nghịch với nhân đức hy vọng
là hai tội: tuyệt vọng và tự phụ; một đàng là do bất cập, một đàng là do thái quá (II-II, qq.20-21). Tuyệt vọng là nghĩ rằng mình không thể nào đạt đến hạnh phúc vĩnh cửu; tự phụ là tin rằng mình có thể đạt đến hạnh phúc mà không cần sự trợ lực của Thiên Chúa.
- Nguyên nhân của tội tuyệt vọng có thể là những sai lầm đức tin liên quan đến ơn cứu độ; nó cũng có thể bắt nguồn từ việc mải mê với vật chất, lấy khoái lạc làm cứu cánh cuộc đời, và không còn nghĩ đến các thực tại thiêng liêng.
- Nguyên nhân của tội tự phụ là sự sai lầm đạo lý về bản chất ơn cứu độ: ơn cứu độ là một ân huệ do Chúa ban, chứ không phải là kết quả của sự chinh phục do công trạng của con người. Tuy nhiên, ân huệ Chúa cũng đòi hỏi sự đáp trả và hợp tác về phía con người.
-- -- --5. Tương quan với các nhân đức khác
Thánh Tôma đối chiếu đức Hy vọng với hai nhân đức hướng Chúa bằng cách đặt chúng trong một mối tương quan năng động giữa cội nguồn và cùng đích.[6] Nơi người Kitô hữu, đức Tin đi trước Hy vọng, bởi vì ta chỉ có thể ước ao và trông mong điều mà ta đã nhận thức; và đức hy vọng lên đường tiến đến yêu mến.
Đức Tin đặt nền tảng cho đức Hy vọng, mang lại cho nó sự hiểu biết và sự chắc chắn về mục tiêu: ta chỉ hy vọng vào điều ta đã biết, và ta chỉ hy vọng ở điều gì có thể đạt được. Vì thế đức Tin khai mở con đường cho đức Hy vọng nhờ sự hiểu biết và tin tưởng. Thật vậy, đức Hy vọng được đức Tin soi sáng không những về hạnh phúc mà Thiên Chúa hứa, mà còn về sự trợ giúp mà Ngài sẽ ban.
Đức Hy vọng nằm ở trong ý chí, tức là cùng một quan năng với đức Mến, nhưng đức Hy vọng khác với đức Mến, bởi vì đức Mến yêu Chúa vì chính Chúa là Sự Thiện tuyệt đối, còn đức Hy vọng hướng đến Thiên Chúa như là hạnh phúc cho mình.[7] Ta co thể so sánh với hai cách thức yêu mến: một bên là yêu cái tốt vì nó tốt; một bên là yêu cái tốt vì mình. Cách thức thứ hai khi không hoàn hảo bằng cách thức thứ nhất. Xét về phương diện này, đức Hy vọng ở dưới đức Mến. Quả vậy, đức Hy vọng còn đang trên đường tiến tới đức Mến, đến chỗ kết hợp hoàn hảo với Thiên Chúa (II-II, q.17, a.3; 8).
Như vậy, đức Hy vọng nằm ở giữa đức Tin và đức Mến. Đức Tin bắt đầu, đức Hy vọng đi theo, đức Mến kết thúc. Cả ba liên kết với nhau nhưng không nhất thiết gắn bó với nhau. Một người có thể có đức Tin mà không có đức Hy vọng; nhưng nếu không có đức Tin thì không thể có đức Hy vọng. Một người có thể có đức Tin mà không có đức Mến, cũng như một người cũng có thể có đức Hy vọng mà không có Đức Mến (như trường hợp người phạm tội trọng). Vì thế người có đức Hy vọng mà mất đức Mến thì vẫn còn hy vọng có thể nhận lại được nhờ ơn tha thứ.
Chúng ta đã bàn qua mối liên hệ giữa đức Tin và đức Hy vọng, cũng như giữa đức Hy vọng mà đức Mến. Riêng về mối liên hệ thứ hai này, thiết tưởng cần thêm một điều nữa, đó là nhờ chiều kích liên đới của đức Hy vọng. Thật vậy, nhờ lòng yêu mến dành cho đồng loại, chúng ta không chỉ hy vọng cho phần rỗi cá nhân mà còn hy vọng cho phần rỗi cho toàn thể nhân loại, theo kế hoạch cứu độ phổ quát của Thiên Chúa (II-II, q.17, a.3).
Sau cùng, thánh Tôma còn liên kết đức Hy vọng với linh ân kính sợ và chân phúc khó nghèo trong tinh thần (II-II, q.19).
[1] Paulus Engelhardt, Speranza, in: Enciclopedia Teologica (a cura di Peter Eicher), Queriniana Brescia 1990, 982-989. Giuseppe Angelini, Speranza, in: Nuovo Dizionario di Teologia (a cura di G. Barbaglio e S. Dianich), Paoline, Roma 1979, 1508- 1533. S. Harent, Espérance, in: Dictionnaire de Théologie Catholique, tome V, Paris 1913, col.605-676.
[2] Basil Studer, Espérance, in: Dictionnaire Encyclopédique du Christianisme Ancien, Cerf Paris, 1990, vol. I, p.857-864.
[3] Xem Phan Tấn Thành, Nhân sinh quan Kitô giáo (Đời sống tâm linh VIII), Rôma 2009, trang 120--127.
[4] Xc. Đời sống tâm linh XI, NXB Tôn giáo, Hà Nội 2014, trang 199.
[5] “Est enim spes certa expectatio futurae beatitudinis, veniens ex Dei gratia et meritis praecedentibus”.
[6] Ordo secundum viam generationis (I-II, q. 62, a. 4; II-II, q. 17, a. 8)
[7] “Caritas facit hominem Deo inhaerere propter seipsum ... Spes autem et fides faciunt hominem inhaerere Deo sicut cuidam principio ex quo aliqua nobis proveniunt” (II-II, q.17, a.6).