Những quan niệm về Hy vọng trong Thánh Kinh và Thánh Truyền - Kỳ XI
NHỮNG QUAN NIỆM VỀ HY VỌNG
TRONG THÁNH KINH VÀ THÁNH TRUYỀN
Phan Tấn Thành, OP.
(trích Đời sống tâm linh - tập XIV)
NỘI DUNG
- Kỳ I :--Chương mở đầu: KHÁI NIỆM VỀ HY VỌNG
-----------Chương Một. CỰU ƯỚC
- Kỳ II :-------- -Mục 1. Đối tượng hy vọng
- Kỳ III:----------Mục 2. Động lực hy vọng
------------Chương Hai. TÂN ƯỚC
- Kỳ IV :--- - -- Mục 1. Nhất lãm
- Kỳ V :-------- Mục 2. Thánh Phaolô
- Kỳ VI :--------Mục 3. Các tác phẩm của Gioan
------------Chương Ba. LỊCH SỬ GIÁO HỘI
-----------------Mục 1. Đối tượng hy vọng: Hy vọng cái gì?
- Kỳ VII : ----------------I. Thời các giáo phụ
- Kỳ VIII : ---------------II. Thời Trung cổ
-------------------------III. Thời Cận đại
- Kỳ IX:-----------------IV. Từ công đồng Vaticanô II
------------------Mục 2. Chủ thể hy vọng: Hy vọng là gì?
- Kỳ X : ------------------I. Thời các giáo phụ
--------------------------II. Thời kinh viện: hy vọng tự nhiên và hy vọng siêu nhiên
- Kỳ XI :-------------- ---III. Thời cận đại: sự cần thiết của đức Hy vọng
---------------------- ---IV. Thời hiện đại: vài văn kiện của Huấn quyền
**********
Kỳ XI
Chương ba: LỊCH SỬ GIÁO HỘI
Mục 2: QUAN NIỆM VỀ CHỦ THỂ HY VỌNG (tiếp theo)
THỜI CẬN ĐẠI VÀ HIỆN ĐẠI
III. Thời cận đại: sự cần thiết của đức Hy vọng
-- -- --1. Sự hiện hữu của đức Hy vọng
-- -- --2. Sự cần thiết của đức hy vọng
IV. Thời hiện đại: vài văn kiện của Huấn quyền
-- -- --1. Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo
-- -- --2. Thông điệp Spe Salvi
-- -- --3. Văn kiện của Uỷ ban Thần học quốc tế liên quan đến đức Hy vọng
**********
III. Thời cận đại: sự cần thiết của đức Hy vọng
Vào thời cận đại, Huấn quyền lên tiếng để khẳng định sự cần thiết của đức hy vọng trong cuộc đời Kitô hữu; điều này giả thiết sự hiện hữu của đức Hy vọng.
-- -- --1. Sự hiện hữu của đức Hy vọng
Thần học kinh viện phân biệt nhiều khía cạnh của hy vọng: hy vọng tự nhiên (xét như cảm xúc) và Hy vọng siêu nhiên (xét như nhân đức hướng Chúa); hy vọng xét theo đối tượng hoặc xét theo chủ thể; hy vọng xét như một nhân đức hoặc xét như một hành vi. Những sự phân biệt này không có trong Tân ước.
Các tác giả của nhóm Cải cách, dựa theo nguyên tắc Sola Scriptura, muốn xoá bỏ tất cả những sự phân biệt ấy. Hơn thế nữa, dựa theo các bản văn của thánh Phaolô, họ phủ nhận sự hiện hữu của “nhân đức Hy vọng”, bởi vì ở nhiều đoạn văn, xem ra thánh tông đồ đồng hóa “tin” và “hy vọng”, điển hình là ở đầu chương 11 của thư gửi Hípri.
Mặt khác, khi bàn về đức tin, các tác giả của nhóm Cải cách nhấn mạnh đến khía cạnh chủ thể hơn là khía cạnh khách thể: tin có nghĩa tin tưởng, tín thác (fides fiducalis), chứ không phải là chấp nhận đạo lý đức tin.[1] Sự tín thác này có thể đi kèm theo sự phập phồng sợ sệt.
Chính trong bối cảnh ấy mà công đồng Trentô đã phải xác định lại ý nghĩa của đức tin và đức cậy trong tiến trình công-chính-hóa: đức tin, đức cậy, đức mến là ba nhân đức khác biệt.[2]
-- -- --2. Sự cần thiết của đức hy vọng
Trước đây, thánh Augustinô phải đương đầu với phái Pêlagiô vì họ dựa vào sức riêng của con người hơn là dựa vào ân sủng. Vào thời cận đại, chúng ta lại gặp thấy khuynh hướng đối nghịch, đó là họ chỉ dựa vào ơn Chúa, và coi nhẹ sự đóng góp của con người. Chúng ta có thể kể ra hai ý kiến tượng trưng nơi phái Cải cách (thế kỷ XVI) và nơi nhóm huyền bí “tình yêu nguyên tuyền” (thế kỷ XVII).
a) Tín thác vào ân sủng của Chúa chứ không vào công trạng
Dựa theo đạo lý của thánh Phaolô, phái Cải cách nhấn mạnh rằng con người được nên công chính nhờ đức tin chứ không nhờ việc làm. Khi áp dụng vào thời cánh chung, điều này có nghĩa là con người cần dựa vào lòng thương xót của Thiên Chúa, chứ không thể nại đến những việc làm hoặc công trạng của mình.
Công đồng Trentô cũng đồng ý rằng con người được nên công chính nhờ ân sủng của Thiên Chúa; nhưng cần thêm rằng ân sủng giúp cho con người phát sinh những hoa trái tốt lành. Thiên Chúa muốn cho chúng ta hợp tác với ân sủng và hứa ban thưởng cho những việc lành của con người. Tuy rằng thánh Phaolô đề cao ân sủng nhưng ông không ngần ngại sử dụng các từ ngữ như là: lương bổng, thù lao, phần thưởng (Rm 2,6; 14,10-12; 1Cr 3,8; 2Cr 5,10). Do đó, các công trạng không trái ngược với ân sủng. Chính nhờ ân sủng mà chúng ta lập được công trạng; do đó, nó có thể trở thành một động lực cho đức hy vọng.
b) Tình yêu tinh tuyền loại trừ hy vọng
Sang thế kỷ XVII, vài trường phái huyền bí chủ trương rằng cần phải mến Chúa vì Chúa chứ không vì phần thưởng mà Chúa hứa ban. Theo họ, nếu chỉ mến Chúa vì phần thưởng thì tinh yêu ấy bất toàn. Vì thế đức Hy vọng không thể được kể vào những nhân đức cao quý: ta cần phải mến Chúa vì Chúa mà thôi, chứ không bận tâm đến chuyện lên thiên đàng hay xuống hoả ngục. Đại biểu cho khuynh hướng này là đức cha Fénelon (1651-1715).[3]
Chủ trương này đã bị Tòa thánh phi bác trong đoản dụ Cum alias ad apostolatum (đức thánh cha Innocentê XII, ngày 12/3/1699. x. Denzinger Schon. số 2351-2352; 2355-2356; 2361).[4]
IV. Thời hiện đại: vài văn kiện của Huấn quyền
Trong những thế kỷ gần đây, triết học ở châu Âu đã tách ra khỏi thần học. Người ta không còn đề cập đến đức Hy vọng về những thực tại tối hậu nữa. Đối tượng của hy vọng không phải là thế giới bên kia, nhưng là thế giới mà ta đang sống: làm thế nào cải thiện thế giới này, biến nó trở nên tốt đẹp hơn?
Để trả lời cho những câu hỏi đó, có ý kiến muốn đặt niềm hy vọng vào sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, có người muốn đặt hy vọng vào các cuộc cánh mạng chính trị, hoặc cách mạng xã hội (Emmanuel Kant, Karl Marx). Thực tế cho thấy rằng tuy điều kiện sinh sống của nhân loại đã được cải tiến rất nhiều, nhưng những âu lo cũng tăng lên không kém. Vì thế bên cạnh các triết gia về hy vọng cũng xuất hiện những triết gia về tuyệt vọng, vạch ra cho thấy những ảo ảnh của mơ mộng (như Sigmund Freud), hoặc sự phi lý của cuộc đời (như Jean Paul Sartre).
Hiến chế của công đồng Vaticanô II về Hội thánh trong thế giới ngày nay, mang tựa đề “Vui mừng và Hy vọng” muốn trả lời cho những thách đố ấy. Riêng về Nhân đức Hy vọng, chúng tôi chỉ muốn nhắc đến hai văn kiện: Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo (1992) và thông điệp Spe salvi của đức thánh cha Bênêđictô XVI (2007)
-- -- --1. Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo
- Đức Hy vọng (Cậy) được bàn ở các số 1817-1821 trong phần luân lý tổng quát. “Hy vọng” được định nghĩa như là một nhân đức hướng về Chúa, nhờ đó chúng ta trông mong Nước Trời và hạnh phúc, đặt niềm tin tưởng vào lời hứa của Đức Kitô, không dựa trên sức lực của mình nhưng trên ơn của Thánh Thần (số 1817).
- Hai tội trái nghịch với đức Hy vọng (sự ngã lòng và tự phụ) được đặt trong phần luân lý chuyên biệt, liên quan đến điều răn thứ nhất (số 2090-2092).
- Hy vọng và cầu nguyện có tương quan mật thiết với nhau: Chúa Thánh Thần giáo dục chúng ta biết cầu nguyện trong đức cậy; đối lại, việc cầu nguyện nuôi dưỡng đức Hy vọng trong lòng chúng ta (số 2657). Cầu nguyện là hiệp thông với Ba ngôi Thiên Chúa (2565). Khi cầu nguyện, chúng ta trông mong về “Trời”, nghĩa là sống hiệp thông với Chúa (2794; 2796).
- Người Kitô hữu hy vọng, cầu nguyện, đồng thời cũng hành động cho Triều đại Thiên Chúa (2632; 2816-2821; 2855). Họ mong đợi Trời mới Đất mới nhưng đồng thời cũng dấn thân xây dựng thế giới hiện tại (1049). Họ cộng tác cho Triều đại Thiên Chúa qua cuộc sống phù hợp với lời giảng dạy của Kitô. Noi theo gương của đức Kitô, các tín hữu thi hành bổn phận của mình, với lòng tận tụy yêu mến (2046).
Như vậy nội dung đạo lý của Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo một phần lớn dựa theo thần học của thánh Tôma, đồng thời muốn bổ túc thêm với giáo huấn của công đồng Vaticanô II khi nêu bật rằng niềm hy vọng cánh chung không tương phản với nỗ lực xây dựng thế giới hiện tại.
-- -- --2. Thông điệp Spe Salvi
Có lẽ lần đầu tiên một thông điệp được dành cho đức Hy vọng là thông điệp Spe salvi “về niềm hy vọng Kitô giáo” của đức giáo hoàng Bênêđictô XVI ban hành 30/11/2007. Thông điệp tái khẳng định niềm hy vọng của Kitô giáo trong một thế giới trở nên trống rỗng từ khi các ý thức hệ chấm dứt, trong đó con người sống mà không có viễn tượng tương lai và không còn khao khát sự sống đời đời nữa.
Mục lục giới thiệu các các tiêu đề chính của văn kiện như sau:
Dẫn nhập (1). Tin là hy vọng (2-3). Quan niệm về hy vọng dựa trên niềm tin trong Tân ước và trong Giáo hội sơ khai (4-9). Đời sống vĩnh cửu là gì? (10-12). Phải chăng hy vọng Kitô giáo chỉ mang tính cách cá nhân? (13-15). Sự chuyển biến của niềm hy vọng Kitô giáo vào thời cận đại (16-23). Dung mạo đích thực của hy vọng Kitô giáo (24-31).
Những chốn học hỏi và thực tập hy vọng: I. Cầu nguyện như là trường hy vọng (32-34). II. Hoạt động và đau khổ như là những chốn học hỏi hy vọng (35-40). Cuộc phán xét như là chốn học hỏi và thực tập hy vọng (41-48). Đức Maria, ngôi sao hy vọng (49-50).
Thật khó xác định văn kiện này đề cập đến Hy vọng dưới khía cạnh khách thể hay khía cạnh chủ thể. Thông điệp đã có dịp đối chiếu giữa nhiều quan niệm về hy vọng: thời xưa, quan niệm về hy vọng trong các tôn giáo cũng như các triết gia Hy lạp và Rôma; thời nay, quan niệm về hy vọng trong các trào lưu tục hoá của khoa học thực nghiệm và của các lý tưởng cách mạng chính trị xã hội. Hy vọng của người Kitô hữu có thể mang nhiều chiều kích: hy vọng hoặc lớn hoặc nhỏ, tạm bợ hoặc cánh chung, cá nhân hoặc cộng đồng. Dù sao, đặc trưng của hy vọng Kitô giáo nằm ở chỗ nó có một khuôn mặt ngôi vị: Đức Kitô là Hy vọng nhập thể (số 24-31). Vì thế hy vọng mang lại tự do; hy vọng chắc chắn; hy vọng dựa trên tình yêu và dẫn đến tình yêu. Trong phần cuối, thông điệp trình bày những môi trường học hỏi và thực tập hy vọng, đó là: cầu nguyện, hoạt động và đau khổ, phán xét (số 32-48).[5]
-- -- --3. Văn kiện của Uỷ ban Thần học quốc tế liên quan đến đức Hy vọng
Sau cùng, thiết tưởng cũng nên nhắc đến một văn kiện của Uỷ ban Thần học quốc tế có liên quan đến đức Hy vọng, mang tựa đề "Niềm hy vọng vào sự cứu độ của những em bé chết mà không được rửa tội" (ngày 19/1/2007). Tuy đối tượng là vấn đề ơn cứu độ của các thơ nhi chết khi chưa được rửa tội, nhưng văn kiện đã dành nhiều đoạn đề cập đến niềm hy vọng và cầu nguyện (chẳng hạn các số 68-79; 102).
Một lần nữa, chúng ta nhận thấy hai khía cạnh khách thể và chủ thể liên hệ chặt chẽ với nhau. Vào những năm sau công đồng, câu chuyện hy vọng mở rộng đến ơn cứu độ không chỉ của cá nhân mà còn của cộng đồng nhân loại: chúng ta có quyền hy vọng rằng tất cả mọi người, kể cả những người ngoài Kitô giáo, cũng có thể được cứu độ không? hơn thế nữa, liệu chúng ta có thể hy vọng rằng tất cả mọi sinh linh, kể cả ma quỷ, đều sẽ được cứu độ không? Thật ra câu hỏi này đã được ông Origène nêu lên từ thế kỷ thứ ba rồi, như đã nói trên đây.
KẾT LUẬN
Để kết luận, chúng ta có thể nói rằng vào thời nay, khi trở về với Tân ước, các tác giả nhận thấy rằng: một đàng cần liên kết đức Hy vọng với đức Tin và đức Mến, đàng khác, xét về động lực của đức Hy vọng, cần chú trọng đến sự phục sinh của Đức Kitô, bảo chứng cho niềm Hy vọng vào sự thành tựu của Vương quốc Thiên Chúa. Những điểm này sẽ được khai triển trong phần kế tiếp, khi bước sang các suy tư hệ thống.
[1] X. Đời sống tâm linh XI (Thần học đức tin), Học viện Đa Minh 2013, trang 199-201; 218.
[2] Concilium Tridentinum, Decretum de justificatione (13/1/1547), cap. 7: Denz Schon. n. 1530; cf. 1541; 1544; 1576.
[3] X. Đời sống tâm linh II, Rôma 2002, trang328. Một tư tưởng tương tự cũng gặp thấy nơi Jansenius; một số luận đề đã bị Bộ Thánh vụ luận phi ngày 7/12/1690: Denzinger Schon. số 2310; 2313.
[4] Xem thêm các đề bị luận phi của Michael Molinos (22/11/1687): Denzinger Schon. số 2207; 2212-2214.
[5] X. Domingo Garcia Guillén, Khuôn mặt hy vọng: thông điệp Spe salvi của đức Bênêđictô XVI trong bối cảnh thần học hiện đại, Thời sự Thần học số 69 (tháng 8/2015), trang 36-62.