Skip to content
Banner 10.2024
Ngôn ngữ

Những quan niệm về Hy vọng trong Thánh Kinh và Thánh Truyền - Kỳ IX

Văn phòng Học Viện
2025-02-12 11:20 UTC+7 59

NHỮNG QUAN NIỆM VỀ HY VỌNG

TRONG THÁNH KINH VÀ THÁNH TRUYỀN

Phan Tấn Thành, OP.

(trích Đời sống tâm linh - tập XIV)

NỘI DUNG

- Kỳ I :--Chương mở đầu: KHÁI NIỆM VỀ HY VỌNG

-----------Chương Một. CỰU ƯỚC

- Kỳ II :-------- -Mục 1. Đối tượng hy vọng

- Kỳ III:----------Mục 2. Động lực hy vọng

------------Chương Hai. TÂN ƯỚC

- Kỳ IV :--- - -- Mục 1. Nhất lãm

- Kỳ V :-------- Mục 2. Thánh Phaolô

- Kỳ VI :--------Mục 3. Các tác phẩm của Gioan

------------Chương Ba. LỊCH SỬ GIÁO HỘI

-----------------Mục 1. Đối tượng hy vọng: Hy vọng cái gì?

- Kỳ VII : ----------------I. Thời các giáo phụ

- Kỳ VIII : ---------------II. Thời Trung cổ

-------------------------III. Thời Cận đại

- Kỳ IX:-----------------IV. Từ công đồng Vaticanô II

------------------Mục 2. Chủ thể hy vọng: Hy vọng là gì?

- Kỳ X : ------------------I. Thời các giáo phụ

--------------------------II. Thời kinh viện: hy vọng tự nhiên và hy vọng siêu nhiên

- Kỳ XI :-------------- ---III. Thời cận đại: sự cần thiết của đức Hy vọng

---------------------- ---IV. Thời hiện đại: vài văn kiện của Huấn quyền

**********

Kỳ IX

Chương ba: LỊCH SỬ GIÁO HỘI

Mục 2:

QUAN NIỆM VỀ HY VỌNG TỪ CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II

IV. Từ công đồng Vatican II

-- -A. Những bước dọn đường

-- -- --1. Phong trào học hỏi Thánh kinh

-- -- --2. Tái khám phá chiều kích tiến hoá của lịch sử

-- -- --3. Thách đố của thuyết Mácxít

-- -- --4. Cảm thức bất an và những khủng hoảng trong kiếp sống

-- -- --5. Nhận thức của triết học hiện đại về con người

-- -B. Công đồng Vaticanô II

-- -- --1. Hiến chế tín lý về Hội thánh

-- -- --2. Hiến chế mục vụ về Hội thánh trong thế giới ngày nay

-- -C. Các văn kiện sau công đồng

***************

IV. Từ công đồng Vatican II

Cánh chung luận đã bắt đầu biến chuyển từ hai thế kỷ trước, nhưng từ công đồng Vaticanô II (1962-1965) trở đi, đã có những biến đổi sâu xa trong tư tưởng và thực hành của người Công giáo.

-- -A. Những bước dọn đường

Việc canh tân cánh chung luận đã được chuẩn bị từ nhiều yếu tố khác nhau, ngay từ đầu thế kỷ XX, một đàng do việc canh tân phương pháp thần học, đàng khác do những thách đố của khung cảnh văn hóa, xã hội.

-- -- --1. Phong trào học hỏi Thánh kinh

Việc học hỏi Thánh kinh (khởi sự từ phía Tin lành) đã cho thấy chiều kích cánh chung nằm ngay ở trung tâm của lời giảng của Đức Giêsu: Sứ điệp Nước Trời. Vì thế, cần phải đưa cánh chung từ ngoại ô vào trung tâm của thần học, và móc nối với thân thế sự nghiệp của Đức Giêsu, với mầu nhiệm Nhập thể và Vượt qua của Người. Mặt khác, như đã thấy trong chương trước, nhiều học thuyết đã nảy sinh nơi các nhà thần học Tin lành trong việc giải thích sứ điệp cánh chung của Đức Giêsu.

-- -- --2. Tái khám phá chiều kích tiến hoá của lịch sử

Việc học hỏi Thánh kinh cũng giúp trở về với chiều kích lịch sử và năng động mà thần học kinh viện đã lãng quên. Thật vậy, các triết học Thượng cổ và Trung cổ quá chú trọng vào bản chất thường hằng, bất biến và bao quát của sự vật; còn tư duy thời hiện đại nhìn thấy tất cả mọi hữu thể như nằm gọn trong mạng lưới của dòng tiến hóa lịch sử. Vì thế cần phải lồng cánh chung học trong lịch sử cứu độ. Hậu nhiên, cần phải nêu bật cánh chung luận “phổ quát” trước cánh chung luận “cá nhân”.

-- -- --3. Thách đố của thuyết Mácxít

Trong số những thách đố của thời đại, ta không thể bỏ qua thuyết Mácxít. Họ tố cáo các tôn giáo là “tha hóa”, là thuốc phiện của dân đen, chỉ mơ màng một thế giới mộng ảo mai sau, để bù đắp lại những lầm than ở đời này. Phải chăng đó là thái độ hèn nhát, trốn chạy? Đối lại, thuyết Mácxít huy động nghị lực để kiến tạo trần thế này nên tốt đẹp hơn, một thế giới không tưởng và hấp dẫn: Thiên đường có thể thực hiện ở trần gian này.

-- -- --4. Cảm thức bất an và những khủng hoảng trong kiếp sống

Sau các cuộc thế chiến kinh hoàng thì phát sinh chủ nghĩa duy-tự-do (Liberalism). Họ muốn vượt lên trên giáo điều và truyền thống để suy nghĩ về thần học. Họ cho rằng Đức Giêsu đã sai lầm khi nói về ngày Quang lâm gần kề.

Cũng vậy trong những năm gần đây, tại các nước Âu Mỹ và Việt Nam, gia tăng nỗi sợ hãi trước những thảm họa bệnh dịch (AIDS, cúm gia cầm...), thiên tai, những khủng hoảng về kinh tế, chính trị¼ đã làm cho nhiều người đánh mất ý nghĩa và niềm hy vọng vào cuộc sống, hoặc cật vấn về lời tiên báo tận thế của Đức Giêsu.

Cơn khủng hoảng về môi sinh đã thu hút mối quan tâm không những của giới khoa học mà còn của Giáo hội nữa: Trạng thái của vũ trụ vào thời thế mạt sẽ như thế nào? Vũ trụ bị hủy diệt hay được tái tạo từ hư vô?

Do sự phát triển của ngành truyền thông, người ta chú ý tới khả năng ngoại cảm của con người, nêu ra vấn đề giao tiếp với vong hồn người chết, dễ dàng tin vào những cuộc tái sinh hay đầu thai¼

-- -- --5. Nhận thức của triết học hiện đại về con người

Nhiều trường phái nhân học (chẳng hạn hiện tượng luận của Merleau Ponty) nhấn mạnh tính duy nhất của con người: xác và hồn gắn bó chặt chẽ với nhau. Cho nên linh hồn không thể lìa khỏi xác một cách điềm nhiên mà không chịu bất cứ tác động nào của cái chết. Do đó cánh chung học sẽ phải trình bày trạng thái của linh hồn sau khi lìa khỏi xác, nó cũng bất toàn và phải quy hướng về sự Phục sinh thân xác.

-- -B. Công đồng Vaticanô II

Công đồng Vaticanô II (1962-1965) được triệu tập không phải để giải quyết vấn đề cánh chung, và cũng không soạn thảo văn kiện nào dành riêng cho vấn đề này. Tuy nhiên, công đồng đã góp phần rất lớn trong việc canh tân cánh chung luận.

Những đề tài cánh chung được đề cập rải rác trong nhiều văn kiện của công đồng Vaticanô II, chẳng hạn như Hiến chế về Phụng vụ (số 8: Chiều kích cánh chung của các buổi cử hành phụng vụ), Sắc lệnh về Truyền giáo (số 9: Tính cách cánh chung của công cuộc truyền giáo). Tuy nhiên, đề tài cánh chung được bàn rộng hơn cả trong Hiến chế tín lý về Hội thánh (Lumen Gentium) chương 7, và Hiến chế mục vụ về Hội thánh trong thế giới ngày nay (Gaudium et spes).

-- -- --1. Hiến chế tín lý về Hội thánh

Hiến chế về Hội thánh gồm 8 chương, trình bày những chiều kích khác nhau của Hội thánh. Chương I bàn về mầu nhiệm Hội thánh, nghĩa là kế hoạch của Thiên Chúa từ muôn thuở. Chương II nói đến Dân Thiên Chúa, nghĩa là sự thể hiện của kế hoạch Thiên Chúa trong lịch sử. Chương III và IV trình bày những cơ cấu Hội thánh dựa theo phẩm trật, gồm các giáo sĩ và giáo dân. Chương V và VI trình bày khía cạnh huyền nhiệm của Hội thánh, nghĩa là ơn gọi nên thánh qua việc thực thi đức ái. Chương VII và VIII trình bày Hội thánh như đoàn lữ hành tiến về quê trời, nơi mà Đức Maria đã đi tới trước chúng ta.

Dĩ nhiên, đáng được chúng ta lưu ý hơn cả là chương IV mang tựa đề “Đặc tính cánh chung của Hội thánh lữ hành, và sự hiệp nhất với Hội thánh trên trời”. Chương này gồm có 4 đoạn: 1/ Ơn gọi cánh chung của Hội thánh (số 48). 2/ Sự thông hiệp giữa Hội thánh trên trời với Hội thánh dưới đất (số 49). 3/ Những liên hệ giữa Hội thánh dưới đất với Hội thánh trên trời (số 50). 4/ Những quy định mục vụ (số 51).

Văn kiện này đã làm thay đổi cái nhìn cổ truyền về cánh chung ở nhiều điểm.

a) Cánh chung được coi như một chiều kích của Hội thánh: Hội thánh tiến về cánh chung như mục tiêu của hành trình. Như vậy, công đồng đã lấy lại tầm quan trọng của cánh chung tổng quát, lật ngược thứ tự của các sách giáo khoa viết từ thời Trung cổ. Ngoài ra, cánh chung được lồng trong lịch sử cứu độ, như một bước tiến về mục tiêu của kế hoạch mà Thiên Chúa đã ấn định từ ngàn xưa. Cánh chung không phải là “tận số” (thế mạt) nhưng là đạt đến hạnh phúc tuyệt đối, căn nguyên của niềm hy vọng. Thực vậy, Hội thánh đang trên đường lữ hành về quê trời, đang thông hiệp với Đức Kitô, Mẹ Maria và các thánh nhân (toàn bộ chương VIII được dành cho Đức Maria, hình ảnh cánh chung của Hội thánh).

b) Chiều kích cánh chung của Hội thánh mang tính cách năng động nhờ được đặt trong mối tương quan với Đức Kitô. Thực vậy, nơi Đức Kitô, thực tại cánh chung đã hoàn tất rồi: Tội lỗi và sự chết đã bị tiêu diệt nơi cuộc Tử nạn và Phục sinh của Người. Một vài phần tử của Hội thánh cũng đã được thông dự vào công trình đó rồi (Hội thánh trên trời, quen gọi là Hội thánh khải hoàn). Nhưng Hội thánh cũng gồm nhiều phần tử đang phải chiến đấu chống lại sự dữ hoặc còn phải được thanh luyện (Hội thánh lữ hành và Hội thánh đau khổ). Dù sao, Hội thánh tin rằng công trình cứu độ đã được hoàn tất nơi Đức Kitô rồi, và việc canh tân thế giới đã khai mào (số 48c).

c) Chúa Thánh Thần cũng tác động trong tiến trình cánh chung của Hội thánh. Chúa Thánh Thần được ban cho nhân loại như hồng ân của thời viên mãn, ngõ hầu thực hiện cuộc canh tân vũ trụ (số 48).

d) Chiều kích cánh chung không chỉ bao trùm Hội thánh mà cả toàn thể vũ trụ nữa, dựa theo tư tưởng của Tân ước được trưng dẫn ở số 48: Ep 1,10; Cl 1,20; 2Pr 3,10-13; Rm 8,19-22. Dĩ nhiên, cần hiểu về việc canh tân đổi mới, chứ không phải là “thế mạt”.

Đó là những viễn tượng mới của cánh chung luận do Hiến chế về Hội thánh đã mở ra. Xét về nội dung của đạo lý, công đồng lặp lại giáo huấn cổ truyền, dựa theo bản văn Thánh kinh hơn là các suy diễn, thí dụ: Hạnh phúc hệ tại “ở kề bên Chúa”, sự “thanh luyện” hơn là luyện ngục.

-- -- --2. Hiến chế mục vụ về Hội thánh trong thế giới ngày nay

Hiến chế tín lý về Hội thánh hướng đến các con cái của Hội thánh (đối nội: ad intra), còn Hiến chế mục vụ (quen gọi là Vui mừng và Hy vọng) hướng đến hết mọi người thiện chí (đối ngoại: ad extra) để đàm đạo về ý nghĩa cuộc đời, về những khát vọng của nhân loại. Trong văn kiện này có ba điểm liên quan đến đề tài cánh chung.

a) Mầu nhiệm sự chết (số 18). Đây là một mối ưu tư của mọi người mà các tôn giáo tìm cách trả lời. Giải đáp của công đồng vừa dựa theo lý luận tự nhiên, bản tính thiêng liêng của linh hồn (số 14) vừa dựa theo lời hứa của mặc khải.

b) Sự mong chờ hạnh phúc ở thế giới bên kia không làm các tín hữu giảm bớt việc dấn thân kiến tạo thế giới này nên tốt đẹp hơn (số 39). Đây là câu trả lời cho sự cáo buộc của thuyết Mácxít. Công đồng cũng tìm cách trả lời cho một cuộc tranh luận thần học vào thập niên 60 bên châu Âu trong số này: Thế giới mai hậu sẽ tiêu hủy hay canh tân thế giới hiện tại? Công đồng đề nghị một lý thuyết trung dung: Giữa thế giới hiện tại và thế giới tương lai vừa có sự liên tục vừa có sự bất liên tục. Liên tục xét về những giá trị tích cực trong hiện tại (công bình, bác ái, nhân đức nói chung). Khác biệt, không chỉ vì những điều tiêu cực sẽ biến mất nhưng nhất là Vương quốc của Thiên Chúa vượt xa những thành tựu của bàn tay con người.

-- -- --c) Hướng đi của lịch sử. Lịch sử sẽ tiến đến chỗ viên mãn nơi Đức Kitô, chìa khoá của lịch sử, Ngài là Alpha và Ômega (số 45, kết luận phần thứ nhất). Thánh Thần cũng là một nguyên ủy hướng dẫn lịch sử nhân loại đến Chân Thiện Mỹ (số 38a; 45b).

-- -C. Các văn kiện sau công đồng

Sau công đồng Vaticanô II, những sách thần học về cánh chung luận đã được soạn lại theo hướng mới như đã được nêu lên ở nhập đề. Mặt khác, một vài vấn đề mới cũng được đặt ra khiến cho Huấn quyền phải can thiệp.

-- -- --1. Công đồng Vaticanô II, cách riêng là Hiến chế Vui mừng và Hy vọng, đã mở ra một cái nhìn mới về tương quan giữa “đạo” với “đời”, giữa đời sống đạo đức và sự dấn thân xã hội. Giáo hội có sứ mạng không những lo cứu rỗi các linh hồn ở đời sau, mà còn giúp cải thiện đời sống con người ở đời này nữa. Nhiều văn kiện về truyền giáo sau công đồng nói đến việc cứu độ “toàn diện” con người, nghĩa là cả hồn và xác, cả đời này lẫn đời sau (Thí dụ: Evangelii nuntiandi 1975, số 27-36; Redemptoris missio 1990, số 17). Tuy nhiên, nguy cơ trái nghịch có thể xảy đến, đó là chỉ lưu ý đến cuộc sống ở thế giới này mà quên hẳn thế giới bên kia, đồng hóa việc kiến tạo Nước Thiên Chúa với những cuộc cách mạng chính trị, xã hội, kỹ thuật.

-- -- --2. Việc canh tân thần học sau công đồng không những chú trọng đến cánh chung tổng quát trước cánh chung cá nhân, nhưng còn muốn theo sát tư tưởng Thánh kinh hơn là các suy diễn thần học. Tuy nhiên, việc “trở về nguồn” đã đặt ra vài vấn đề không nhỏ, chẳng hạn quan điểm về con người trong Thánh kinh: Thánh kinh có chấp nhận rằng con người gồm bởi hai yếu tố (hồn và xác) không? Hồn là gì? Xác là gì? Hồn có chết theo xác không, hay là bất tử? Xác cho tách khỏi hồn không hay là được sống lại tức khắc cùng với hồn? Ý kiến của nhà thần học Công giáo không còn đồng nhất như trước nữa. Vì thế ngày 17/5/1979, Bộ Giáo lý Đức tin phải viết một lá thư Recentiores episcoporum sinodi về vài vấn đề về cánh chung học gửi đến các Hội đồng giám mục để khẳng định lại đạo lý cổ truyền của Giáo hội liên quan đến “cánh chung cá nhân”. Chúng ta sẽ trở lại nội dung văn kiện này khi bàn về sự chết và cuộc sống sau đó. Ở đây chúng ta cần lưu ý đến vài nguyên tắc liên quan đến phương pháp.

- Văn kiện nhìn nhận rằng tiếng “hồn” mang nhiều nghĩa trong Thánh kinh (và trong các nền triết học). Vì thế cần phân biệt giữa “thực chất” và “từ ngữ”. Hội thánh tin rằng sau khi chết, vẫn còn có cái gì đó của cái “Tôi” tồn tại (chết không phải là trở về hư vô).

- Khi trình bày các thực tại thuộc thế giới bên kia, chúng ta không quên rằng giữa thế giới hiện tại và thế giới tương lai có vài điểm tương đồng và rất nhiều điểm khác biệt. Vì thế cần ý tứ trong cách sử dụng những hình ảnh để diễn tả, kể cả những hình ảnh được sử dụng trong Thánh kinh.

-- -- --3. Ủy ban Thần học Quốc tế năm 1992 cũng xuất bản một văn kiện về cánh chung học De quibusdam quaestionibus actualibus circa eschatologiam (Một vài vấn nạn hiện nay liên quan đến cánh chung luận), sau khi được đức giáo hoàng Gioan Phaolô II chấp thuận ngày 16/11/1991. Đây không phải là tuyên ngôn của Huấn quyền nhưng cũng đáng được lưu ý, bởi vì chủ tịch của ủy ban này cũng là Tổng trưởng của Bộ Giáo lý Đức tin. Văn kiện lặp lại những lời minh xác về các chân lý căn bản của đức tin liên quan đến số phận đời đời của cá nhân và lịch sử, đồng thời phê bình một số giáo thuyết hiện đại về cánh chung, cách riêng lý thuyết về "sự phục sinh tức khắc trong cái chết" với việc phủ định trạng thái trung gian (hai tư tưởng đi kèm theo nhau).

Nội dung văn kiện gồm Nhập đề và 11 chương: 1/ Sự phục sinh của Chúa Kitô và của chúng ta; 2/ Sự Quang lâm của Chúa Kitô và sự phục sinh; 3/ Sự hiệp thông với Chúa Kitô liền ngay sau khi chết, dựa theo Tân ước; 4/ Sự sống lại theo bối cảnh thần học hiện nay; 5/ Con người được mời gọi đến sự phục sinh; 6/ Cái chết của người Kitô hữu; 7/ Sự hiệp thông sự sống của tất cả các phần tử Hội thánh trong Chúa Kitô; 8/ Sự thanh luyện linh hồn để gặp gỡ Đức Kitô vinh hiển; 10/ Cuộc sống con người chỉ có một lần chứ không lặp lại: Vấn đề tái sinh luân hồi; 10/ Kế hoạch vĩ đại của Thiên Chúa và tính nghiêm túc của kiếp sống con người; 11/ Lex orandi – Lex credendi.