Skip to content
Banner 10.2024
Ngôn ngữ

Những quan niệm về Hy vọng trong Thánh Kinh và Thánh Truyền - Kỳ VIII

Văn phòng Học Viện
2025-02-10 08:50 UTC+7 63

NHỮNG QUAN NIỆM VỀ HY VỌNG

TRONG THÁNH KINH VÀ THÁNH TRUYỀN

Phan Tấn Thành, OP.

(trích Đời sống tâm linh - tập XIV)

NỘI DUNG

- Kỳ I :--Chương mở đầu: KHÁI NIỆM VỀ HY VỌNG

-----------Chương Một. CỰU ƯỚC

- Kỳ II :-------- -Mục 1. Đối tượng hy vọng

- Kỳ III:----------Mục 2. Động lực hy vọng

------------Chương Hai. TÂN ƯỚC

- Kỳ IV :--- - -- Mục 1. Nhất lãm

- Kỳ V :-------- Mục 2. Thánh Phaolô

- Kỳ VI :--------Mục 3. Các tác phẩm của Gioan

------------Chương Ba. LỊCH SỬ GIÁO HỘI

-----------------Mục 1. Đối tượng hy vọng: Hy vọng cái gì?

- Kỳ VII : ----------------I. Thời các giáo phụ

- Kỳ VIII : ---------------II. Thời Trung cổ

-------------------------III. Thời Cận đại

- Kỳ IX:-----------------IV. Từ công đồng Vaticanô II

------------------Mục 2. Chủ thể hy vọng: Hy vọng là gì?

- Kỳ X : ------------------I. Thời các giáo phụ

--------------------------II. Thời kinh viện: hy vọng tự nhiên và hy vọng siêu nhiên

- Kỳ XI :-------------- ---III. Thời cận đại: sự cần thiết của đức Hy vọng

---------------------- ---IV. Thời hiện đại: vài văn kiện của Huấn quyền

**********

Kỳ VIII

Chương ba: LỊCH SỬ GIÁO HỘI

Mục 1. QUAN NIỆM VỀ ĐỐI TƯỢNG HY VỌNG : (phần 2)

THỜI TRUNG CỔ và CẬN ĐẠI

II. Thời Trung cổ

-- -A. Thách đố văn hóa

-- -- --1. Não trạng suy tư về bản tính các sự vật

-- -- --2. Quan niệm về con người

-- -- --3. Hoàn cảnh xã hội

-- -B. Niềm tin của Giáo hội

-- -- --1. Tuyên ngôn của Huấn quyền           

-- -- --2. Phụng vụ

-- -C. Khảo luận thần học

III. Thời Cận đại

-- -A. Thách đố văn hóa

-- -B. Niềm tin của Hội thánh

-- -C. Khảo luận thần học

*******

II. Thời Trung cổ

Các sử gia không nhất trí về khởi điểm và tận điểm của thời Trung cổ (bên châu Âu). Dù sao, điều này không quan trọng lắm đối với vấn đề của chúng ta. Chúng ta chỉ cần biết rằng cao điểm của các cuộc tranh luận thần học và tuyên ngôn của Huấn quyền diễn ra trong khoảng những thế kỷ XI-XIV.

-- -A. Thách đố văn hóa

-- -- --1. Não trạng suy tư về bản tính các sự vật

Vào giai đoạn đầu của thời giáo phụ, chúng ta thấy nảy ra nhiều vấn đề đặt ra do sự chung đụng giữa văn hoá Do thái và văn hoá Hy lạp. Vào đầu thiên niên kỷ thứ hai, dường như không còn ai biết đến văn hoá Do thái nữa. Mặt khác, tuy có tiếng là văn hoá Hy lạp thắng thế, nhưng trên thực tế, một cuộc tranh chấp đã diễn ra giữa triết học Platon và triết học Aristote hồi thế kỷ XIII, với những hệ quả không nhỏ đối với cánh chung luận cá nhân.

Như đã nói trên đây, khi đối chiếu giữa văn hoá Do thái và văn hoá Hy lạp ta thấy có những khác biệt về các từ ngữ nói về con người (hồn, xác). Một sự khác biệt không nhỏ nữa là “não trạng”: Người Do thái thích kể chuyện (Thiên Chúa đã làm gì cho chúng ta); người Hy lạp thích suy tư về bản tính các vật (Thiên Chúa là ai? Đức Kitô là ai?). Vào thời các giáo phụ, sự đối nghịch hai não trạng đó đã gây ra những cuộc tranh luận về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba ngôi và về mầu nhiệm Chúa Kitô. Trong phạm vi cánh chung luận, sự khác biệt giữa hai não trạng trở nên rõ ràng hơn vào thời Trung cổ. Các nhà thần học tranh luận khá nhiều về bản chất của Thiên đàng (Phúc kiến là gì? Thuộc lý trí hay ý chí? Trực kiến hay suy diễn), Sự sống lại (con người sẽ sống lại với thân xác như thế nào? Mấy tuổi? Hồn và xác sẽ kết hợp như thế nào?), Phán xét (Ở đâu? Ai ngồi toà? Xét công hay xét tội?), Hoả ngục (Ở đâu? Gồm các loại hình phạt nào? Lửa như thế nào?), ... Trong não trạng đó cũng phát sinh ra Luyện ngục (nơi thanh luyện, thay vì tiến trình thanh lọc), “lâm bô” (nơi dành cho các nhi đồng chưa được rửa tội).

Không phải chỉ các nhà thần học mới bận tâm đến các câu chuyện “bản thể” của tứ chung, mà các văn nghệ sĩ cũng dùng tài năng của mình để diễn ra cách sống động. Thí dụ thi phẩm lừng danh Divina Commedia của Dante (Italia) trình bày mộc cuộc du hành tham quan các “tầng” hỏa ngục, luyện ngục, thiên đàng.

-- -- --2. Quan niệm về con người

Trong triết học Hy lạp, có hai quan niệm về sự kết hợp giữa hồn với xác. Theo Platon, linh hồn đã được dựng nên từ muôn thuở trên thiên giới, và bị đày xuống trần thế để đền tội; linh hồn coi thân xác như cái tù. Đối lại, theo Aristote, linh hồn là “mô thể” (forma) của con người: Linh hồn được dựng nên để hợp với thân xác thành một con người cá thể. Linh hồn cần đến các giác quan để thu thập hình ảnh làm chất liệu cho tư tưởng. Linh hồn rất gắn bó với thân xác.

Tuy các giáo phụ không chấp nhận thuyết của Platon về nguồn gốc vĩnh cửu của linh hồn, nhưng các ngài chịu ảnh hưởng khá nặng của ông về linh hồn khao khát được thoát ly khỏi thân xác để trở về thiên giới. Thánh Tôma Aquinô đánh dấu một khúc quặt khi du nhập triết học Aristote, đề cao giá trị của thân xác, và nỗi khắc khoải của linh hồn muốn tái ngộ thân xác trong sự phục sinh.

-- -- --3. Hoàn cảnh xã hội

Cánh chung luận thời Trung cổ không chỉ bị chi phối với triết học mà còn bởi nhiều hoàn cảnh xã hội.

- Những cảnh chiến tranh loạn lạc, những tai ương xã hội (cơn Dịch tễ đen đã cướp đi hàng vạn sinh linh), tình trạng phong hoá suy đồi ngay từ nội bộ Giáo hội ... đã trở thành cơ hội để các nhà giảng thuyết loan báo ngày tận thế đã gần kề, điển hình nhất là thánh Vinh-sơn Ferrer O.P. (1350-1419), được mệnh danh là “thiên thần Khải huyền”.

- Chế độ phong kiến (hoàng đế và các chư hầu) ảnh hưởng không ít đến cách hình dung Thiên Chúa. Chúa Kitô được khoác áo cẩm bào, đội vương miện hoàng đế: Ngài xuất hiện như thẩm phán công minh. Con người khiếp run khi phải đối diện với Ngài, vì thế phải chạy đến nài van Đức Maria làm Trạng sư (và các thánh cầu bầu).[1]

-- -B. Niềm tin của Giáo hội

Chúng ta có thể thấy niềm tin của Giáo hội về cánh chung trong các tuyên ngôn của Huấn quyền và trong cả việc cử hành phụng vụ.

-- -- --1. Tuyên ngôn của Huấn quyền    

Các tuyên ngôn của Huấn quyền vào thời Trung cổ chú trọng đến cánh chung cá nhân hơn là cánh chung tổng quát.

- Văn kiện quan trọng nhất là tông hiến Benedictus Deus của đức thánh cha Bênêđictô XII (28/1/1336) tuyên bố rằng sau khi chết, các linh hồn sạch tội sẽ được hưởng phúc kiến ngay lập tức (chứ không phải chờ đến ngày Chúa Quang lâm). Văn kiện này đánh dấu một bước ngoặt trong cánh chung luận: trọng tâm chuyển từ cánh chung tổng quát (tận thế) sang cánh chung cá nhân.

- Một trong những nguyên nhân gây chia rẽ giữa các Giáo hội Tây phương và Đông phương (Công giáo và Chính thống) là đạo lý về luyện ngục. Vì thế điểm này được ghi trong chương trình nghị sự của hai công đồng hiệp nhất họp tại Lyon II (1274) và Firenze (1439).

- Những bản tuyên xưng đức tin chống lại thuyết nhị nguyên (lạc giáo Cathari) khai triển thêm đề tài về thiên thần và ma quỷ cũng như về hoả ngục. Nên nhớ rằng các tín biểu cổ điển chỉ nói đến sự sống vĩnh cửu chứ không nhắc đến hỏa ngục!

-- -- --2. Phụng vụ

Niềm tin của Giáo hội không chỉ diễn tả qua những tuyên ngôn của Huấn quyền mà còn qua nhiều hình thức khác, đặc biệt là phụng vụ. Tục lệ cầu nguyện cho các người qua đời đã xuất hiện từ thời các giáo phụ ngay từ những thế kỷ đầu được phát triển nơi các đan viện, đánh dấu với việc thiết lập lễ cầu cho tất cả các linh hồn ngay sau lễ Các Thánh (2/11/998) xuất phát tại Cluny, dòng Biển đức do sáng kiến của viện phụ Odilon (994-1049).

-- -C. Khảo luận thần học

Với sự xuất hiện của các đại học tại Âu châu từ thế kỷ XII, nhiều bộ tổng luận thần học cũng ra đời dùng làm sách giáo khoa. Các đề mục thần học được xếp đặt thành hệ thống. Cánh chung luận nằm ở phần chót,[2] với nguy cơ là bị coi như chuyện bên lề, nghĩa là chẳng ăn nhập gì tới đời sống.

Do ảnh hưởng của văn hóa, các khảo luận về cánh chung (De novissimis) bàn về khía cạnh cá nhân (những gì sẽ xảy ra sau khi chết: phán xét, thiên đàng, luyện ngục, hoả ngục), hơn là khía cạnh cộng đồng. Sau khi chết, linh hồn có thể được hưởng hạnh phúc muôn đời bên Chúa (phúc kiến); như vậy, xem ra sự phục sinh thân xác không còn cần thiết nữa! Dù sao, nói chung, những chuyện thuộc thế giới bên kia mang màu sắc kinh hoàng, chứ không còn là động lực cho niềm hy vọng nữa.


III. Thời Cận đại

Chúng ta sẽ không bàn đến những cuộc tranh luận của các sử gia về khởi điểm và mốc điểm của thời cận đại (và hiện đại), mà chỉ chú trọng đến vài vấn đề đặt ra cho cánh chung luận từ thế kỷ XVI tại Âu châu.

-- -A. Thách đố văn hóa

Tại Âu châu, thời cận đại được đánh dấu bởi những cuộc “thoát ly” hoặc “giải phóng”, dưới nhiều hình thức: thế quyền tách rời khỏi giáo quyền, lý trí tách rời khỏi tôn giáo, khoa học tách rời khỏi triết học, nhân dân dành chủ quyền khỏi các vua chúa, vv. Từ đó nảy sinh những quan điểm khác nhau về cuộc sống (nhân sinh quan), về thế giới (vũ trụ quan), với những hệ luận không nhỏ đối với cánh chung luận.

1. Khoa học cận đại cho thấy kiến trúc của vũ trụ khác với lối mô tả bình dân trong Thánh kinh (trên trời dưới đất). Không những trái đất quay chung quanh mặt trời, mà thái dương hệ chỉ là một hành tinh trong hằng hà sa số các hành tinh. Như vậy, “trời” ở đâu? Lên trời là đi đâu? Địa ngục là gì? Đó là những câu hỏi cần phải được giải thích theo ý nghĩa mới.

2. Khoa học kỹ thuật mang lại nhiều hứa hẹn giúp cải thiện cuộc sống hiện tại. Chúng ta có thể vượt qua cuộc sống lầm than này nhờ các phát minh khoa học. Hạnh phúc có thể đạt được ở thế giới này, không cần phải mơ mộng đi đâu xa. “Thế giới mới” (tân thế giới) không hiểu về thế giới mai hậu, nhưng là thế giới của những cuộc thám hiểm, viễn chinh, mang về nhiều tài nguyên làm giàu cho đất nước. Như vậy, dù muốn dù không, con người thời cận đại tiếp nhận hai “ngôn ngữ” cánh chung luận: một ngôn ngữ trong nhà thờ, giảng về hạnh phúc đời sau; một ngôn ngữ của chính trị và khoa học, giảng về hạnh phúc đời này. Hậu nhiên, thần học về cánh chung, cách riêng là cánh chung cá nhân, không liên hệ gì đến cuộc sống đời này, ngoại trừ để đe doạ cho người ta sợ mà lo ăn ngay ở lành.

-- -B. Niềm tin của Hội thánh

1. Vào thời cận đại, Giáo hội bên Tây phương phải chứng kiến một cuộc ly khai mới, giữa Công giáo và Tin lành. Ông Luther chủ trương rằng duy chỉ có Thánh kinh mới là tiêu chuẩn duy nhất của đức tin (sola Scriptura); vì thế ông không chấp nhận đạo lý về luyện ngục. Ông cũng chỉ trích việc tôn kính dành cho Đức Mẹ và các thánh, và việc cầu nguyện cho người qua đời. Trọng tâm của kinh nguyện là chỉ có Thiên Chúa mà thôi (solus Deus). Tuy nhiên, công đồng Trentô (được triệu tập để đối phó với những thách đố của Tin lành) không bàn đến các vấn đề cánh chung cách trực tiếp, nhưng chỉ nhắc tới những mục khác (ân xá, ân sủng và sự công chính hoá, luyện ngục).

2. Đối với đời sống đạo, “tứ chung” trở thành đề tài suy gẫm bắt buộc trong các cuộc tĩnh tâm, dọn mình chết lành. Việc cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục rất được khuyến khích.

-- -C. Khảo luận thần học

Không có sự thay đổi đáng kể về cánh chung luận trong các sách thần học. Cánh chung luận được bàn ở thiên cuối cùng của thần học tín lý, gồm hai phần chính: Cánh chung cá nhân (chết, phán xét riêng, thiên đàng, hỏa ngục, luyện ngục) và cánh chung phổ quát (tận thế, phục sinh, phán xét chung, trời mới đất mới).

Cánh chung luận được coi như thiên kết thúc của thần học tín lý. Tiếc rằng nó không được liên kết với Kitô học và Giáo hội học, vì thế mất đi chiều kích cứu độ và cộng đồng. Người ta chỉ còn bàn đến cánh chung như là tận thế, chứ không còn nghĩ đến sự hoàn tất của Vương quốc Thiên Chúa.


[1] Xem Phan Tấn Thành, Đời sống tâm linh, tập II, Rôma 2002, tr. 155-157.

[2] Xem Petrus Lombardus, Sententiae, IV, d. 43-50.